Sau khi học đoạn này, thấy hay quá, thật bổ ích đối với việc học. Không ngần ngại mà đăng lên Blog để chia sẻ cùng anh em. Bài dịch sau giờ giảng dạy của cô Phạm Vân Dung.
1. Phiên âm:
Biến hóa khí chất.
Mạnh Tử viết: “Cư di khí, dưỡng di thể”.
Huống cư thiên hạ chi quảng cư hồ? Cư nhân do nghĩa, tự nhiên tâm hòa nhi thể
chính. Cánh yếu ước thời, đãn phất khử cựu nhật sở vi, sử động tác giai trúng lễ,
tắc khí chất tự nhiên hoàn hảo. Lễ viết: “Tâm
quảng thể bàng”. Tâm ký hoành đại, tắc tự nhiên thư thái nhi lạc dã. Nhược
tâm đãn hoành đại, bất cẩn kính, tắc bất lập; nhược đãn năng cẩn kính, nhi tâm
bất hoành đại, tắc nhập vu ải, tu khoan nhi kính. Đại để hữu chư trung giả tất
hình chư ngoại, cố quân tử hòa tắc khí hòa, tâm chính tắc khí chính. Kì thủy
dã, cố diệc tu căng trì. Cổ chi vi quan giả dĩ trọng kì thủ, vi lí giả dĩ trọng
kì túc, chí vu minh, vu, kỷ, trượng vi minh, giai sở dĩ thận giới chi.
Dục sự lập, tu
thị tâm lập. Lập tâm bất khâm tắc đãi trụy, sự vô do lập. Bất tri nghi giả, chỉ
thị bất tiện thực tác, ký thực tác, tắc tu hữu nghi. “Xích oách chi khuất, dĩ cầu thân dã; long xà chi chập, dĩ tồn thân dã;
tinh nghĩa nhập thần, dĩ trí dụng dã; lợi dụng an thân, dĩ sùng đức dã”. Thử
giao tương dưỡng chi đạo. Phù, khuất giả sở dĩ cầu thân giả, cần học sở dĩ tu
thân dã, bác văn sở dĩ sùng đức dã, duy bác văn tắc khả dĩ lực trí. Nhân bình
cư hựu bất khả dĩ toàn vô tư lự, tu thị khảo tiền ngôn vãng hành, quan tích
nhân chế tiết, như thử dĩ hành kì sự nhi dĩ. Cố động yên nhi vô bất trúng lý.
Học quý tâm ngộ,
thủ cựu vô công. Vi học đại ích, tại tự năng biến hóa khí chất. Bất nhĩ, tốt vô
sở phát minh, bất đắc kiến thánh nhân chi áo. Cố học giả tiên tu biến hóa khí
chất, biến hóa khí chất dữ hư tâm tương biểu lý.
Học bất năng suy
cứu sự lý, chỉ thị tâm thô. Độc thư thiểu, tắc vô do khảo hiệu đắc nghĩa tinh.
Cái, độc thư dĩ duy trì thử tâm, nhất thời phóng hạ, tắc nhất thời đức tính hữu
giải. Độc thư, tắc thử tâm thường tại; bất độc thư, tắc chung khan nghĩa lý. Bất
kiến thư tu thành dũng, tinh tư đa tại dạ trung hoặc tĩnh tọa đắc chi, bất ký tắc
tư bất khởi. Đãn thông quán đắc đại nguyên hậu, thư diệc dị kí. Sở dĩ quan thư
giả, thích kỉ chi nghi, minh kỉ chi vị đạt. Mỗi kiến mỗi tri sở ích, tắc học tiến
hĩ; vu bất nghi xứ hữu nghi, phương thị tiến hỹ.
Mỗ quan “Trung dung” nghĩa nhị thập niên, mỗi độc
mỗi hữu nghĩa, dĩ trưởng đắc nhất cách. Lục kinh tuần hoàn, niên dục nhất quan.
Quan thư dĩ tĩnh vi tâm. Đãn chỉ thị vật bất nhập tâm, nhiên nhân khởi năng trường
tĩnh? Tu dĩ chế kì loạn. Đa thư duyệt nhi hiếu vong giả, chỉ vị lí vị tinh nhĩ.
Lí tinh, tắc tu kí liễu vô khử xứ giả.
Hí ngược, trực đại
vô ích, xuất vu vô kính tâm. Hí ngược bất dĩ, bất duy hại sự, chí diệc vi khí sở
lưu. Bất hí ngược, diệc thị trì khí chi nhất đoan.
Chính tâm chi thủy,
đương dĩ kỉ tâm vi nghiêm sư. Phàm sở động tác, tắc tri sở cụ, như thử nhất nhị
niên gian, thủ đắc lao cố, tắc tự nhiên tâm chính hỹ.
Kim nhân vi học,
như đăng sơn lộc, phương kì dĩ lệ
chi thời, mạc bất khoát bộ đại tẩu, cập đáo tuấn tiễu chi xứ, tiện chỉ, tu thị
yêu cương quyết quả cảm dĩ tiến.
Tâm thanh thời
thường thiểu, loạn thời thường đa, kì thanh thời, tắc thị minh, thính thông, tứ
chi bất đãi ki thúc, nhi tự nhiên cung cẩn, kì loạn thời phản thị. Như thử giả
hà dã? Cái, dụng tâm vị thục, khách lự đa nhi thường tâm thiểu dã, tập tục chi
tâm vị khử nhi thực tâm vị toàn dã. Hữu thời như thất giả, chỉ vị tâm sinh, nhược
thục hậu bất tự nhiên. Tâm bất khả lao, đương tồn kì đại giả, tồn chi thục hậu,
tiểu giả khả lược.
Học giả bất luận
thiên tư mĩ ố, diệc bất chuyên tại cần khổ, đãn quan kì xu hướng trứ tâm xử như
hà.
Nghĩa lí hữu
nghi, tắc trạc khử cựu kiến, dĩ lai tân ý. Tâm trung cẩu hữu sở khai, tức tiện
trát kí. Bất tư, tắc hoàn tắc chi hỹ. Cánh tu đắc bằng hữu chi trợ. Tại khả
nghi nhi bất nghi giả, bất tằng học, học tắc tu nghi. Thí chi hành đạo giả,
tương chi Nam Sơn, tu vấn đạo lộ chi xuất. Tự nhược an tọa, tắc hà thường hữu
nghi.
Học giả chỉ thị
vu nghĩa lí trung cầu. “Thí như nông phu,
thị tiêu thị cổn, tuy hữu cơ cận, tất hữu phong niên”. Cái, cầu chi tắc tu
hữu sở đắc.
Học giả đại bất
nghi chí tiểu khí khinh. Chí tiểu tắc dị túc, dị túc tắc vô do tiến. Khí khinh
tắc hư nhi vô doanh, ước nhi vi thái, vong nhi vi hữu, dĩ lai tri vi dĩ tri, vị
học vi dĩ học. Nhân chi hữu sỉ vu tựu học, tiện vị ngã hảo, thắng vu nhân, chỉ
thị bệnh tại bất tri cầu thị vi tâm. Cố học giả đương vô ngã.
2. Dịch nghĩa:
Làm thay đổi khí
chất. Mạnh Tử nói rằng: “nơi ở có thể làm
thay đổi khí chất, nuôi dưỡng có thể làm thay đổi thể trạng”. Huống chi việc
sống nơi rộng lớn trong thiên hạ? Dựa vào đức nhân, noi theo nghĩa thì tự nhiên
tâm hòa, mà thể chính. Khi khí chất còn bị hạn chế, chỉ cần rũ bỏ những động tác
trước đây, khiến cho động tác đều hợp với lễ, thì khí chất sẽ tự nhiên tốt đẹp
một cách trọn vẹn. Kinh Lễ có nói rằng:
“Tâm rộng rãi, thể an nhiên thư thái”.
Tâm đã rộng lớn thì sẽ tự nhiên thoải mái mà vui vẻ. Nếu tâm đã rộng lớn, nhưng
lại không kính cẩn, thì cũng sẽ không thể trụ vững được; nếu đã có thể kính cẩn,
mà tâm lại không rộng lớn, thì lại rơi vào chỗ hẹp hòi;nên vừa rộng rãi mà vừa
kính cẩn. Đại để là bên trong có những gì thì sẽ hình ra bên ngoài như thế ấy,
cho nên bậc quân tử hòa thì khí hòa, tâm chính thì khí chính. Lúc mới bắt đầu
thì càng nên giữ gìn một cách nghiêm ngặt. Người xưa làm ra mũ là vì quý trọng
đầu, làm ra giầy là vì quý trọng đôi chân, đến như làm các bài minh văn trên
mâm, chén, bàn, ghế là để răn rè, cẩn trọng vậy.
Muốn sự thành
thì trước hết phải khiến cho tâm được lập. Lập tâm mà không kính cẩn thì sẽ hỏng
nát, sự cũng vì thế mà không được lập.
Người mà không
biết nghi hoặc chỉ vì chưa thực sự làm, bởi nếu đã thực sự làm thì sẽ có nghi hoặc.
“Con sâu nó co lại, là vì mong sự duỗi
ra; rồng và giao long ẩn mình, là vì mong giữ gìn tấm thân; hiểu được hết mức
nghĩa lí là để dùng nó hết mực, dùng một cách nhanh nhạy để an thân, là để tôn
sùng đức tính vậy”. Đấy là cái đạo nuôi dưỡng lẫn nhau. Ôi! Cái sự co lại
là để mong cầu duỗi ra, chăm chỉ học hành là nhằm để tu thân, nghe rộng là để
tôn sùng đức tính, duy chỉ có bác văn là có thể hết sức mình. Lúc sinh hoạt hằng
ngày thì chẳng thể không lo nghĩ, nên xem xét lới nói và hành động của người
xưa, xem sự hạn chế của người xưa, như vậy cũng chỉ mới là để thực hành sự tu
dưỡng của mình mà thôi. Cho nên mà hành động ở đấy thì không có gì là không hợp
với lí lẽ.
Học thì quý sự
khai mở ở tâm, nếu cứ khư khư giữ lấy cái cũ thì sẽ chẳng có kết quả gì. Ích lợi
to nhất của việc học là ở chỗ có thể tự làm thay đổi khí chất. Nếu chẳng được
như vậy, thì suốt đời cũng chẳng thể mở mang ra được, cũng chẳng thể thấy được
cái chỗ uẩn diệu của thánh nhân. Cho nên người theo học trước tiên nên làm thay
đổi khí chất, thay đổi khí chất có quan hệ trong ngoài với hư tâm.
Học mà không thể
suy cùng được sự lí chỉ là vì tâm thô, đọc sách ít thì không có chỗ dựa vào để
khảo xét sự sâu sắc của nghĩa lí. Có lẽ sách là để duy trì cái tâm đấy, buông
ra một lúc thì cũng có nghĩa là đức tính nhất thời bị trễ nãi. Đọc sách thì tâm
này luôn thường tại, không đọc sách thì cũng là kết thúc việc xem nghĩa lí. Khi
không đọc sách thì nên thành tựu lại những chỗ mà sách đã phát ra, những suy
nghĩ sâu sắc thường nhiều vào lúc nửa đêm hoặc là lúc ngồi yên tĩnh, không ghi
nhớ được thì suy nghĩ cũng không được phát ra. Nếu đã thông suốt được nguồn lớn
thì sách cũng dễ nhớ. Cho nên, việc xem sách là để tháo gỡ được chỗ nghi hoặc,
làm sáng tỏ được chỗ chưa thông đạt. Mỗi lần xem sách là mỗi lần tăng trưởng về
tri thức, thì đối với việc học sẽ tiến bộ; gặp chỗ không đáng nghi mà lại nghi hoặc,
như vậy thì mới càng tiến bộ cho việc học vậy.
Ta xem nghĩa lí
sách Trung dung hai mươi năm, mỗi lần
xem là mỗi lần được thêm nghĩa mới, cũng đã trưởng thành được thêm một bậc nhận
thức. Lục kinh thừa tiếp mỗi năm lại muốn xem thêm một lượt. Xem sách thì lấy
tâm làm tĩnh. Nhưng mà vật không nhập tâm, thì sao tĩnh tâm được lâu dài? Nên
dùng để chế ngự cái loạn của tâm. Người xem sách nhiều mà lại hay quên thì chỉ
là do chưa tinh thông nghĩa lí. Khi đã tinh thông nghĩa lí thì tự nhiên sẽ ghi
nhớ được mà không bỏ sót đi chỗ nào.
Sự đùa cợt thật
là vô ích, nó xuất phát từ chỗ tâm không kính cẩn. Đùa cợt không ngừng, chẳng
những hại việc, mà chí cũng bị khí cuốn trôi đi mất. Không đùa cợt, chính là để
giữ lấy đầu mối của khí. Lúc mới bắt đầu chính tâm, nên coi tâm mình là người
thầy nghiêm. Phàm là những động tác mà biết được chỗ lo sợ, cứ như vậy trong
khoảng một đến hai năm, giữ được vững vàng thì tự nhiên tâm sẽ chính.
Người học đời
nay cũng giống như việc leo núi, lúc mới đến sườn núi quanh co thì không ai
không rảo bước cho nhanh, đến chỗ vách đá cheo leo, liền dừng lại mà nên cương
quyết quả cảm mà tiến lên.
Lúc tâm thanh
tĩnh thì ít, mà lúc tâm bị loạn thì nhiều, lúc tâm thanh tĩnh thì nhìn được
sáng rõ, mà nghe được thông suốt, tứ thể không đợi bó buộc mà tự nhiên kính cẩn,
lúc tâm loạn thì ngược lại. Như vậy là thế nào? Có lẽ là dụng tâm chưa được
thành thục, suy nghĩ viễn vông thì nhiều mà thường tâm thì lại ít, tâm theo thói đời chưa bỏ hết được, mà cái thực
tâm thì lại chưa đầy đủ. Có lúc thì như là bị mất, chỉ là do tâm sinh, nếu tâm
thuần thục thì về sau sẽ không bị như vậy nữa. Tâm không nên quá mệt mỏi, chỉ
nên giữ lại những điều to lớn, điều gì đã thuần thục thì có thể bỏ đi những chỗ
nhỏ nhặt.
Người học bất kể
là thiên tư đẹp hay xấu, cũng không chuyên chú ở sự chuyên cần, chỉ là xem chỗ
tâm thể hiện rõ xu hướng của người đó mà thôi.
Nghĩa lí có sự
nghi ngờ thì tâm nên bỏ những cách nhìn cũ để mà đến được với ý mới. Nếu trong
lòng có được sự khai mở thì nên lập tức ghi chép lại. Nếu không đào sâu suy
nghĩ thì những điều đó lại sẽ bị che lấp lại. Càng nên có sự trợ giúp của bạn
bè. Ở những chỗ đáng nghi hoặc mà không nghi hoặc, đấy là vì chưa từng học qua,
nếu đã từng học thì ắt sẽ có sự nghi hoặc. Ví như người đi đường, muốn đi đến
Nam Sơn thì nên hỏi đường lúc xuất phát. Nếu như cứ ngồi yên thì sao có sự nghi
hoặc.
Người học chỉ
truy cầu ở nghĩa lí. “Ví như người nông
dân, phải bỏ công cày cuốc, tuy rằng có năm mất mùa, nhưng cũng có năm được mùa”.
Có lẽ là cái điều đã theo đuổi thì sẽ có được thu nhận.
Người học rất
không nên chí khí nhỏ hẹp. Chí nhỏ thì dễ thỏa mãn, dễ thỏa mãn thì không dựa
vào đâu để tiến lên được. Khí nhẹ thì trống rỗng mà lại cho là đầy đủ, ràng buộc
mà lại cho là thông thái, mất mà lại cho là có, những điều chưa biết mà lại cho
là biết, chưa học mà lại cho là đã học rồi. Người mà cảm thấy xấu hổ vì việc học,
lại cho rằng mình là tốt, là hơn người, chỉ là ở chỗ không biết lấy cầu thị
làm tâm. Cho nên người học nên vô ngã.