Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

Bài tựa sách Trung Dung



Phần dịch nghĩa:
Sách Trung dung vì sao mà được làm ra vậy? Thầy Tử Tư lo rằng cái đạo học sẽ bị thất truyền mà làm ra sách ấy. Có lẽ là từ thời thượng cổ, các vị thánh thần nối trời lập chuẩn, mà rồi cái đạo thống cũng được truyền cho tới tận ngày nay. Nếu xem trong kinh sách, thì cái câu “Doãn chấp quyết trung” là lời mà vua Nghiêu truyền lại cho Đế Thuấn lúc nhường ngôi, cái câu “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung  là lời mà Đế Thuấn truyền lại cho vua Vũ lúc nhường ngôi. Một lời của Đế Nghiêu đã là tột cùng, tường tận, thế mà Đế Thuấn lại bổ sung thêm vào 3 câu, thì cũng chỉ là để làm sáng tỏ thêm cho một câu của Đế Nghiêu, hẳn như vậy mà về sau mới có thể may mắn không bị sai lạc đi.
Có lẽ là đã từng bàn luận về sự “hư linh tri giác” của tâm, nó đã thống nhất, thế mà lại còn phân ra sự khác nhau giữa “nhân tâm” và “đạo tâm”. Nếu lấy việc đấy, hoặc là do bởi sự khác nhau của hình khí. Hoặc vốn là do ở tính mệnh, mà dùng đó để mà phân ra sự khác nhau của “tri giác”.  Cho nên, hoặc là nguy hại mà không được yên ổn, hoặc là vi diệu mà khó tỏ bày. Thế nhưng, con người ta thì không ai mà không có những biểu hiện đấy, cho nên dù là bậc “thượng trí” cũng không thể không có “nhân tâm”, mà rồi cũng không thể không có cái tính ấy; cho nên dù là kẻ “hạ ngu” thì cũng không thể không có cái gọi là “đạo tâm”. Hai loại người đấy cùng ở lẫn trong một cái khoảng nhỏ bé mà không biết làm thế nào để làm cho chúng tách biệt nhau, cho nên nguy hại càng thêm nguy hại,  mà vi diệu càng thêm vi diệu, thế rồi sự công bình của thiên  lý rốt cuộc cũng không biết lấy gì để mà gạt bỏ được sự riêng tư của nhân dục. “Tinh” tức là xem xét cái khoảng giữa hai sự vật mà không có hỗn tạp, “nhất” tức là giữ sự thuần chính của bản tâm mà không xa lìa.
          Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đại Vũ là những bậc đại hiền trong thiên hạ. Các vị ấy đem thiên hạ truyền lại cho nhau là những việc lớn trong thiên hạ. Các vị ấy làm các bậc đại hiền, làm những việc lớn trong thiên hạ, mà coi việc truyền và nhận thiên hạ, cẩn thận cảnh giới trong lời nói mà cũng không vượt quá như vậy.  Đấy là cái lý của thiên hạ, há có thể thêm vào hay bớt ra được nữa. Từ đấy cho tới nay, các vị thánh nối tiếp lẫn nhau mà làm bậc quân vương trong thiên hạ, như: Thành Thang, Văn Vương, Vũ Vương; Cao Giao, Y Phó, Chu Triệu, làm những bậc bầy tôi; cũng đều lấy đấy để mà tiếp thừa đạo thống. Và rồi có thầy của ta, tuy không có được những cái danh vị[1] cao quý kia, nhưng lại có thể nối các bậc thánh đời trước, mở ra cái học ngày nay, tuy cái công lao không đúng với địa vị nhưng đức hạnh thì hơn cả Nghiêu Thuấn. Nhưng mà lúc đó có thể nhìn mà biết được thì chỉ có cái truyền của thầy Nhan Tử (Nhan Uyên) và thầy Tăng Tử (Tăng Sâm) là cái tông học đích truyền. Cho đến khi thầy Tăng Tử truyền lại, thì lại truyền cho thầy Tử Tư là cháu đích tôn của Khổng Tử, thì lúc đó đã cách xa các bậc thánh đời trước,  mà rồi các dị đoan tà thuyết cũng nổi lên. Thầy Tử Tư sợ rằng nếu để càng lâu thì càng mất đi cái bản chân của đạo thống, mà rồi đem cái ý của những lời mà Đế Nghiêu, Đế Thuấn truyền lại cho nhau đến nay. Cái bản thể là những lời thường ngày nghe được của cha và thầy, thêm sự suy diễn công phu mà làm ra sách này, để mà dẫn dắt cho kẻ hậu học. Có lẽ là vì sự lo lắng sâu xa, cho nên lời của sách ấy mật thiết; cái suy tư của thầy (Tử Tư) lâu xa nên lời trong sách tường tận. Sách ấy nói “thiên mệnh chi vị tính” tức là nói về “đạo tâm”,  sách ấy nói “trạch thiện cố chấp” tức là nói về “tinh nhất”, sách ấy nói “quân tử chấp trung tức là nói đến “chấp trung”. Các đời sau nối tiếp nhau cũng đã hơn nghìn năm, thế mà lời nói trong sách ấy vẫn không bị sai khác đi, mà vẫn giống như lời của người xưa. Trải qua quá trình tìm tuyển các sách của tiên thánh, sở dĩ đưa các đầu mối, làm rõ sự uẩn áo, thì chưa có gì là không được sáng tỏ và tường tận như sách này. Từ đấy mà sách lại được truyền đến cho Mạnh Tử, mà rồi để làm sáng tỏ thêm cái nghĩa cho sách đó, để rồi tiếp lại được cái đạo thống của tiên thánh, đến khi Mạnh tử mất đi thì cái đạo thống lại bị thất truyền. Thế rồi sự truyền của đạo thống cũng không thể vượt ra được khỏi sự ràng buộc của câu chữ lời nói. Và rồi cái dị đoan tà thuyết nổi lên ngày càng lớn mạnh, đến lúc Lão và Phật cùng xuất hiện thì tuy là gần với cái lý nhưng mà lại xa rời cái bản chân thực tại. Nhưng mà may thay, cái sách ấy không bị mai một đi, cho nên khi anh em Trình Tử[2] xuất hiện, có được cái chỗ khảo cứu để mà tiếp thừa cái đạo thống đã thất truyền cả nghìn năm nay. Còn có được cả những căn cứ để mà loại bỏ những sai trái của bên 2 nhà Lão và Phật. Có lẽ cái công lao của Tử Tư vào sách ấy là to lớn, mà nếu như ngoài Trình Tử ra thì không có ai có thể dựa vào những lời trong sách ấy mà có thể lĩnh hội được cái tâm ý bên trong. Tiếc thay! Cái điều mà hai thầy dùng để nói lại không được truyền lại, mà chỉ có những điều ghi chép lại của họ Thạch và những điều ghi chép cẩn thận của môn nhân. Vậy nên cái nghĩa lớn tuy được sáng tỏ mà lời nói lại huyền vi không được rõ ràng. Đến những điều vi thuyết của học trò nhị Trình, tuy tương đối tường tận mà nhiều chỗ cũng được phát huy, tuy có nhiều hơn những lời của thầy mà lại phóng túng hơn so với Lão và Phật.
          Hy tôi từ nhỏ đã từng được đọc mà trộm nghĩ rằng nên suy xét lại những điều đã bị ẩn mất lâu nay. Đại khái là vào một buổi sáng của năm, bỗng nhiên tựa như có được gì đó để mà lĩnh hội được những điều cốt yếu, mà sau đó mới mới dám dung hội các thuyết lại để mà xem xét kỹ càng các ý, rồi làm chương cú cho thiên sách, để đợi các hậu nhân quân tử đời sau. Mà có một số người cùng chung chí hướng, lại tin dùng sách của họ Thạch, loại bỏ những điều tạp nhiễm phồn loạn. Tên là dùng để ghi lại tập lược và ghi những ý đã được luận bàn thêm bớt, biện biệt những điều còn nghi hoặc, để nhờ đời sau. Mà về sau cái yếu chỉ của sách, phân chia mạch lạc quán thông, rõ ràng giản lược đều phải dựa vào đấy, to lớn nhỏ bé cũng đều có ở trong sách ấy, mà rồi những điều được mất, trong ngoài sáng tỏ, mà cũng đến được cái thú cùng tận của sách. Tuy đối với sự truyền thừa của đạo thống thì không dám bàn bừa, nhưng đối với kẻ sĩ mới theo học thì cũng có người hứng thú với việc đấy, thì cũng giúp ích cho việc nâng cao học vấn và vươn xa về đức hạnh.
          Ngày Mậu Thân, tháng ba, mùa xuân năm Kỷ Dậu. Chu Hy viết tựa ở Tân An.

Hà Nội, tháng mạnh xuân năm Nhâm Thìn.
Bách Quỷ Trúc Lâm dịch.
 P/s: Bài dịch này tôi dịch cách đây hơn 1 năm, để làm tài liệu học tập môn chuyên ngành. Tuy biết có đôi chỗ chưa thông, nhưng tôi vẫn bạo dạn đăng lên. Hy vọng gặp được bậc "bác nhã quân tử" rộng lòng chỉ điểm, cùng giúp nhau để hoàn thiện hơn.


[1] Trỏ đế vị.
[2] Trình Di và Trình Hạo, gọi chung là Nhị Trình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét