Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Tại sao nói "Thi ký vong, Xuân Thu tác. Ngụ bao biếm, biệt thiện ác"?

Thi là bộ tổng tập thơ ca dân gian của Trung Quốc thời cổ trên tất cả các phương diện, từ sinh hoạt đời thường đến những lễ nghi, từ cuộc sống thôn dã đến nơi triều đình. Thi là tiếng lòng, tức là sự phản ánh của dân chúng đối với nền chính trị.
Thiên tử nhà Chu yêu cầu các vua chư hầu phải thu thập thơ trong dân gian để dâng lên cho mình xem xét qua những chuyến đi tuần thú. Từ đó, vua chư hầu lại sai các quan đi thu thập thơ ca dân gian (thái thi), chư hầu dâng lên , thiên tử xem mà thấy được phong tục (trần thi quan phong). Trong những bài thơ được dâng lên, dẫu có bài chê trách chế độ, nhưng thiên tử không lấy đó mà trách phạt, trái lại càng răn mình chăm lo cho chế độ.
Bởi vậy, Thi là bản trường ca ca ngợi thời kì thịnh trị của nhà Chu, nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu, khi còn các bậc thánh vương như là Văn – Vũ – Chu công, luôn được lòng dân hướng về.
Khi Vũ Vương diệt nhà Thương, xác định nền thể chế của nhà Chu với đầy đủ lễ nhạc, phong cho họ hàng thân thích cùng những đại thần có công các vùng đất để làm chư hầu. Thiên tử nhà Chu ở nơi kinh kì, rộng ngàn dặm, những nơi khác là chư hầu. Nhà Chu đặt ra các chế độ để chư hầu phụng sự, nhưng bản thân thiên tử nhà Chu cũng có trách nhiệm bảo về chư hầu. Họ liên kết với nhau để chống lại các bộ tộc bên ngoài (khuyển, nhung, bắc địch, đông di, nam man, rợ Hoài, kiểm doãn, …). Thiên tử nhà Chu theo thông lệ thì 5 năm sẽ đi tuần thú 1 lần.
Khi nhà Chu Bình Vương dời đô về Lạc Ấp, nhà Chu chuyển sang phía đông, thì trật tự do nhà Chu đặt ra đã không còn được hiệu quả như trước nữa. Chư hầu ngày càng lớn mạnh, lấn át thiên tử nhà Chu, thậm chí còn liên kết với những bộ tộc bên ngoài để đánh chiếm lẫn nhau. Thời Xuân Thu thì mới dừng lại ở chuyện xưng bá, vẫn còn phảng phất cái gọi là đức; nhưng sang thời Chiến Quốc thì chẳng còn gì cả, kẻ mạnh diệt kẻ yếu.
Khi Khổng Tử soạn Xuân Thu, Ngài gửi gắm vào đấy tinh thần phục tùng, đề cao thiên tử nhà Chu. Mọi hành động đều hướng về cái gọi là chính danh và tôn vương nhương di (đề cao thiên tử, xua đuổi di rợ). Cho nên, những ghi chép theo niên hiệu hay tước phong của nhà Chu thì là khen, gọi thẳng tên thì thường là chê. Đấy chính là cách ghi chép thể hiện tinh thần “ngụ bao biếm” (ngụ sự khen chê). Cho nên mới nói, Nhất tự chi bao vinh ư hoa cổn; nhất tự chi biếm nhục ư phủ việt ; (một chữ khen thì vinh hơn hoa gấm, một chữ chê sợ hơn búa rìu). Khổng Tử làm Xuân Thu mà loạn thần tặc tử cụ phải kinh sợ.

Bút pháp của Xuân Thu trở thành lối bút của lối viết sử sau này, và là gương sáng rạng soi danh phận, tôn chính thống, mãi là gương cho các bậc đế vương muôn đời.
Tài liệu tham khảo:
1. Phạm Văn Khoái, Giáo trình Xuân Thu - Tả truyện.
2. Ngữ văn Hán Nôm, Ngũ kinh.
Triều Khúc, Hà Nội ngày 13 tháng 12 năm 2013.
Hữu Trạch Lê Đình Sơn chém

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

Hiên Viên hoàng đế tứ quý thi 軒轅黃帝四季詩 (Thơ bốn mùa của Hoàng đế Hiên Viên)


Hiên Viên hoàng đế tứ quý thi  軒轅黃帝四季詩
(Thơ bốn mùa của Hoàng đế Hiên Viên)

I. Phiên âm: 
1. Sinh tại Hoàng đế đầu, nhất thế vĩnh vô ưu. Tiểu nhân đa phú quý, y thực tự nhiên chu. Xử thế đa cao vị, quân tử hảo trù mưu. Nữ nhân bình ổn hảo, gia đắc tuấn nho lưu.
2. Sinh tại Hoàng đế thủ, doanh mưu bản tiền cú. Xuất ngoại quý nhân phùng, gia trung bách sự hữu. Sơ niên bình bình ẩn, tích tụ thập phần hữu. Tài bạch tứ phương lai, lão đại tắc đáo thủ.
3. Sinh tại Hoàng đế kiên, nhất thế phú vạn thiên. Trung niên tài bạch hữu, nhi tôn phái điệt miên.
Y lộc tùy thời hảo, vãn cảnh hữu trang điền. Huynh đệ đa đắc lực, tiền khổ hậu đầu cam.
4. Sinh tại Hoàng đế phúc, y thực tự nhiên túc. Văn vũ lưỡng biên tùy, sênh ca liên vũ khúc. Trung niên y thực quý, vãn niên đa hưởng phúc. Khoái hoạt tận vinh hoa, thiêm thọ cánh gia phúc.
5. Hoàng đế yêu hạ cân, phụ mẫu đương kì trân. Trung niên y thực hảo, lão đại đắc hoàng kim. Môn phong đa cải hoán, thử thị quý nhân thân. Tử tôn tất tân diệu, văn minh đa tiến bộ. 
6. Sinh tại hoàng đế tất, tác sự vô lợi ích. Sơ niên lao lục đa, dã bất quyết y thực. Nhật nhật lộ thượng hành, vị miễn cước phất phất. Vãn cảnh hưởng vinh hoa, trung niên tân khổ cực.
7. Sinh tại hoàng đế túc, tu hành miễn lao lục. Nhất thế dã bình an, bất nghi cư tổ ốc. Nữ nhân giá lưỡng phu, nam nhân thê lưỡng tục. Đạp phá hoang sơn lĩnh, li tổ phương thành phúc.

II. Dịch nghĩa:
1. Người sinh ra vào giờ Tý mùa xuân, giờ Ngọ mùa hạ, giờ Hợi mùa thu, giờ Tị mùa đông; thì cả đời chẳng phải âu lo. Kẻ tiểu nhân thì nhiều phú quý; ăn mặc tự đủ đầy. Ở đời địa vị cao, bậc quân tử khéo lo liệu. Phận nữ giỏi thu xếp, nhà được dòng danh Nho.
2. Người sinh vào giờ Mùi và Tị mùa xuân, giờ Tị và giờ Sửu mùa hạ, giờ Tị và giờ Sửu mùa thu, giờ Ngọ và Hợi mùa đông; thì kinh doanh lo liệu tiền luôn đủ đầy. Ra ngoài gặp quý nhân, trong nhà thì được trăm việc. Buổi đầu thường côi cút, tích chứa mười phần đủ đầy. Tiền của bốn phương đến, tuổi già ắt sẽ có.
3. Người sinh vào giờ Mão và giờ Dậu mùa xuân, giờ Mão và giờ Dậu mùa hạ, giờ Tý và giờ Ngọ mùa thu, giờ Mão và giờ Dậu mùa đông; thì suốt đời được đầy đủ muôn phần. Trung niên có tiền của, con cháu mãi quây quần. Lộc ngoài tùy thời tốt, về già có ruộng vườn. Anh em nên gắng sức, trước khổ sau sẽ vui.
4. Người sinh vào giờ Sửu và Hợi mùa xuân, giờ Mùi và giờ Hợi mùa hạ, giờ Mão và giờ Mùi mùa thu, giờ Dần và giờ Thân mùa đông; thì cái ăn cái uống tự đủ đầy. Văn võ hỗ trợ nhau, thổi sênh cùng múa hát. Trung niên ăn mặc quý, tuổi già hưởng nhiều phúc. Vui hưởng hết vinh hoa, thêm thọ lại thêm phúc.
5. Người sinh vào giờ Ngọ mùa Xuân, giờ Tý mùa hạ, giờ Thân mùa thu, giờ Tý mùa Đông; thì thêm kính yêu cha mẹ. Trung niên ăn mặc tốt, già đến có bạc vàng. Gia phong nhiều thay đổi, thân ấy là quý nhân. Cháu con thêm rực rỡ, nhiều tiến bộ văn minh.
6. Người sinh vào giờ Thìn và giờ Tuất mùa xuân, giờ Thìn và giờ Tuất mùa hạ, giờ Dần và giờ Dậu mùa thu, giờ Sửu và giờ Mùi mùa đông; thì làm việc đều vô ích. Buổi đầu tuy vất vả, xong ăn mặc đủ đầy. Hằng ngày đi trên đường, khỏi phải chân run rẩy. Trung niên nhiều vất vả, về già hưởng vinh hoa.
7. Người sinh vào giờ Thân và giờ Dần mùa xuân, giờ Dần và Thân mùa hạ, giờ Tuất và giờ Thìn mùa thu, giờ Thìn và giờ Tuất mùa đông; thì tu hành chẳng tốn công. Suốt đời hưởng bình an, chẳng hợp ở nhà tổ. Phận nữ gả hai chồng, phận trai lấy hai vợ. Đạp phá đỉnh núi hoang, rời tổ mới thành phúc.

III. Cách tính giờ:
Giờ Tý: 23h00 – 00h59, Giờ Sửu: 01h00 – 02h59, Giờ Dần: 03h00 – 04h59,
Giờ Mão: 05h00 – 06h59,Giờ Thìn: 07h00 – 08h59,Giờ Tị: 09h00 – 10h59,
Giờ Ngọ: 11h00 – 12h59,Giờ Mùi: 13h00 -14h59,Giờ Thân: 15h00 – 16h59
Giờ Dậu: 17h00 – 18h59,Giờ Tuất: 19h00 – 20h59,Giờ Hợi: 21h00 – 22h59.