Thứ Ba, 6 tháng 1, 2015

Tại sao nói: "Thi ký vong, Xuân Thu tác. Ngụ bao biếm, biệt thiện ác"?

Thi là bộ tổng tập thơ ca dân gian của Trung Quốc thời cổ trên tất cả các phương diện, từ sinh hoạt đời thường đến những lễ nghi, từ cuộc sống thôn dã đến nơi triều đình. Thi là tiếng lòng, tức là sự phản ánh của dân chúng đối với nền chính trị.
Thiên tử nhà Chu yêu cầu các vua chư hầu phải thu thập thơ trong dân gian để dâng lên cho mình xem xét qua những chuyến đi tuần thú. Từ đó, vua chư hầu lại sai các quan đi thu thập thơ ca dân gian (thái thi), chư hầu dâng lên , thiên tử xem mà thấy được phong tục (trần thi quan phong). Trong những bài thơ được dâng lên, dẫu có bài chê trách chế độ, nhưng thiên tử không lấy đó mà trách phạt, trái lại càng răn mình chăm lo cho chế độ.
Bởi vậy, Thi là bản trường ca ca ngợi thời kì thịnh trị của nhà Chu, nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu, khi còn các bậc thánh vương như là Văn – Vũ – Chu công, luôn được lòng dân hướng về.
Khi Vũ Vương diệt nhà Thương, xác định nền thể chế của nhà Chu với đầy đủ lễ nhạc, phong cho họ hàng thân thích cùng những đại thần có công các vùng đất để làm chư hầu. Thiên tử nhà Chu ở nơi kinh kì, rộng ngàn dặm, những nơi khác là chư hầu. Nhà Chu đặt ra các chế độ để chư hầu phụng sự, nhưng bản thân thiên tử nhà Chu cũng có trách nhiệm bảo về chư hầu. Họ liên kết với nhau để chống lại các bộ tộc bên ngoài (khuyển, nhung, bắc địch, đông di, nam man, rợ Hoài, kiểm doãn, …). Thiên tử nhà Chu theo thông lệ thì 5 năm sẽ đi tuần thú 1 lần.
Khi nhà Chu Bình Vương dời đô về Lạc Ấp, nhà Chu chuyển sang phía đông, thì trật tự do nhà Chu đặt ra đã không còn được hiệu quả như trước nữa. Chư hầu ngày càng lớn mạnh, lấn át thiên tử nhà Chu, thậm chí còn liên kết với những bộ tộc bên ngoài để đánh chiếm lẫn nhau. Thời Xuân Thu thì mới dừng lại ở chuyện xưng bá, vẫn còn phảng phất cái gọi là đức; nhưng sang thời Chiến Quốc thì chẳng còn gì cả, kẻ mạnh diệt kẻ yếu.
Khi Khổng Tử soạn Xuân Thu, Ngài gửi gắm vào đấy tinh thần phục tùng, đề cao thiên tử nhà Chu. Mọi hành động đều hướng về cái gọi là chính danh và tôn vương nhương di (đề cao thiên tử, xua đuổi di rợ). Cho nên, những ghi chép theo niên hiệu hay tước phong của nhà Chu thì là khen, gọi thẳng tên thì thường là chê. Đấy chính là cách ghi chép thể hiện tinh thần “ngụ bao biếm” (ngụ sự khen chê). Cho nên mới nói, Nhất tự chi bao vinh ư hoa cổn; nhất tự chi biếm nhục ư phủ việt ; (một chữ khen thì vinh hơn hoa gấm, một chữ chê sợ hơn búa rìu). Khổng Tử làm Xuân Thu mà loạn thần tặc tử cụ phải kinh sợ.
Bút pháp của Xuân Thu trở thành lối bút của lối viết sử sau này, và là gương sáng rạng soi danh phận, tôn chính thống, mãi là gương cho các bậc đế vương muôn đời.
Tài liệu tham khảo
1.      Phạm Văn Khoái, Giáo trình Xuân thu Tả truyện.
2.      Giáo trình Ngữ văn Hán Nôm, tập 2 – Ngũ kinh
Triều Khúc, Hà Nội ngày 13 tháng 12 năm 2013.

Hữu Trạch Lê Đình Sơn chém
(Dọn nhà thấy lại bài kiểm tra môn Xuân Thu Tả truyện từ trung tuần tháng 12 năm 2013, nay đăng cho đỡ mốc Blog)

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

Mùa Lạc



Năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng thời gian này, quê tôi lại vào vụ thu hoạch lạc, mà tôi hay gọi với cái tên “mùa lạc” như tên một tác phẩm văn học của nhà văn Nguyễn Khải.
Mùa lạc năm nay có phần muộn hơn năm ngoái, cũng muộn hơn so với những năm về trước. Tôi nhớ những năm trước, cứ vào khoảng tết Mồng năm (tết Đoan Ngọ) dân làng đã rộn ràng thu hoạch, nhưng năm nay mãi đến tận bây giờ dân làng mới bắt đầu xuống ruộng. Nguyên nhân chính là do lạc năm nay tỉa muộn, mà nguyên nhân của việc tỉa muộn là do tiết trời lạnh. Như thường lệ, hằng năm dân làng tỉa vào trước tết, ngay sau khi thu hoạch vụ Đông, tỉa xong chuẩn bị nghỉ sắm tết là vừa. Không chỉ có lạc, mà ngay cả lúa cũng như vậy, cũng được cấy trước tết, khi thoảng có nhà nào muộn thì mới để ra giêng. Lịch xưa nay là vậy, nhưng mấy năm nay thời tiết thay đổi dữ quá, trước tết tiết trời rét căm căm, không thể ra đồng được xuống giống được. Trường hợp có tỉa được lạc, hay cấy được lúa ra đồng thì cũng bị lạnh mà hỏng hết giống, nên dân làng thường nấn ná để ra giêng, khi trời đã hửng ấm.
Lạc là cây màu ngắn ngày, từ khi tỉa đến khi thu hoạch chỉ chừng bốn tháng. Nhưng trong khoảng bốn tháng đó có biết bao công đoạn chăm sóc, từ làm cỏ, sáo đất, bón phân, cho tới vun gốc, sau đó mới yên tâm nghỉ ngơi cho đến khi thu hoạch. Đấy là nói khi bình thường, chứ khi thoảng giống xấu, lạc bị mất nhiều thì còn phải đi tỉa dặm (tỉa bù khoảng đất bị mất). Lạc có thể tỉa thóc hoặc tỉa mầm, tùy vào đất khô hay đất ẩm, trời ấm hay trời lạnh, đất bái cao hay đất bái thấp. Tỉa thóc thì nhanh, nhưng phần trăm lên không được như tỉa mầm, nhưng tỉa mầm thì lại lâu và mất thời gian hơn.
Trong kỳ nghỉ tết vừa rồi, tôi có dịp được đi tỉa lạc cùng với bố mẹ và thằng em trai, nhưng bây giờ đến khi thu hoạch thì tôi không thể về được. Trước đây, khi còn ở nhà thì năm nào tôi cũng cùng với gia đình, anh em đi nhổ lạc, thậm chí những năm khi tôi mới bắt đầu ra Hà Nội học, mỗi dịp mùa vụ tôi vẫn tranh thủ về giúp gia đình. Nhưng việc học ngày một bận, tôi cũng ít có thời gian về thăm nhà, nói gì đến về giúp đỡ bố mẹ những khi nông vụ.
Năm nay tôi không thể về được, nên chuyện của năm nay tôi hiện chưa được rõ, tôi đi nói chuyện trước đây vậy. Những chuyện thu hoạch thì thực ra năm nào cũng như năm nào, nên cũng chẳng có gì mới lạ. Vào mùa thu hoạch là khi lạc đã già chừng 80%, mà cây lạc cũng bắt đầu rượi xuống, bà con háo hức xuống ruộng thu hoạch. Chuyện đồng quê, tưởng chừng mệt nhọc, nhưng cũng không ít tiếng cười và niềm vui.
Bởi mùa này ban ngày trời rất nắng, chừng 9 – 10 giờ sáng thì đã không thể chịu được nữa rồi, nên bà con thường đi nhổ lạc vào buổi tối hoặc lúc về sáng. Tôi còn nhớ một lần nhà tôi đi nhổ lạc lúc về sáng, khi đó khoảng 3 giờ sáng, khi đó trăng hãy còn tỏ, gió mùa nhẹ thổi, vắng tiếng ếch nhái, tí tách tiếng dế, nghe như một bản nhạc đồng quê. Nhà tôi đi sớm là vậy, nhưng đến ruộng thì đã có nhà nhổ được cả sào rồi, chắc có lẽ họ đi từ tối qua. Bố tôi không quên đem theo cái điếu cày, trước khi xắn tay là thì không quên bắn một điếu. Cũng nhờ cái điếu, khi thoảng mấy chú, mấy bác gần đó chạy lại hút thuốc, chuyện trò xua tan đi cái nỗi vất vả của nghề nông. Cái nghề nông gắn bó từ thuở cha ông, tuy vất vả, cực nhọc nhưng yên bình, đậm tình người.
Trời càng về sáng, tiếng chào hỏi, chuyện trò trên khắp cánh đồng càng trở nên rôm rả hơn. Những câu chuyện phiếm, những lời so sánh về mùa màng năm nay với các năm trước, rồi những chuyện trên trời dưới biển cũng không hề ngớt trên môi những người nông dân vui tính, hóm hỉnh. Khi thoảng được chuyện hay, mọi người lại cười phá lên, nhưng tay vẫn đều đều quơ nhổ từng hàng cây lạc đều tăm tắp. Khi thoảng, một vài người đi qua lại hỏi vọng xuống xem lạc năm nay có nhiều củ không, và những tiếng chào đáp trả kèm theo những câu trả lời.
Nắng sớm nhẹ vắt qua muôn vật, một vài khoảnh lạc hãy còn xanh, lấm tấm lẫn trong màu xanh của lá lạc là một vài chấm vàng tươi của hoa lạc. Mà cũng lạ, ngay cả những nhà cây đã bắt đầu lụi, vẫn thấy có điểm vài màu vàng tươi của hoa lạc. Những gốc ngô lô chô nhô lên giữa bạt ngày màu xanh của lá lạc, quê tôi thường tỉa ngô ở hai bên của vạt lạt, nhưng do ngô tốt, lạc hay bị vóng, nên giờ ít nhà trông xen ngô vào lạc. Thực ra, trước đây trồng xen ngô vào lạc như vậy là để lấy ngô để chăn nuôi, chứ giờ thức ăn chăn nuôi sẵn nên người ta cũng không quan trọng việc trồng xen ngô nữa.
Lạc sau khi nhổ lên, giũ sạch đất, sẽ được phơi sơ tại ruộng trước khi đem về, cho nên buổi trưa mới phái cất công ở lại ruộng trông coi là như vậy. Quê tôi, cũng tùy vào cây lạc có tốt hay không mà người ta có xén bớt phần lá đi hay không. Việc xén bớt lá đi là vì một số lí do, trước là để đem phần gốc và củ về cho nhẹ hơn, sau là lấy phần lá phơi khô làm thức ăn mùa mưa cho trâu bò, hoặc có nhà dùng lá lạc tươi làm phân bón, nói chung là không để lãng phí chút sản phẩm phụ nào của đồng ruộng. Giữa trưa sang chiều, khi lớp trên đã khô, chúng tôi sẽ đi trở ngược từng khom lại để cho khô cả mặt dưới, việc này tuy không lâu như nhổ, nhưng dưới trưa hè thì cũng đủ để mướt mồ hôi.
Dưới cái nắng tháng Năm, những bọn trẻ con như chúng tôi được giao nhiệm vụ trông lạc, tất nhiên là ngồi trong bóng cây, hoặc chỗ mát nào đó, chứ không phải là ngồi ngoài nắng. Ở quê, dẫu nắng nhưng không gian bao la, gió Nam đưa ngược lên rất khoan khoái. Lại chưa kể khi thoảng có cánh diều no gió, nằm gác chân chữ ngũ, mắt liu diu, vừa gật gù vừa ngắm cánh diều bé tí trên cao. Khi thoảng ngủ quên, tỉnh dậy thì mặt giời cũng xuống gần đến ngọn tre.
Chiều đến, tùy theo điều kiện từng nhà mà các phương thức đem lạc về nhà cũng khác nhau. Có nhà dùng xe trâu, xe bò, có nhà thuê công nông, thậm chí có nhà vẫn dùng xe thồ. Trên những cánh đồng, trên khắp đường đi, đâu đâu cũng lạc, những tiếng cười nói, những câu hát vui, những tiếng í ới gọi nhau, càng làm cho cảnh ngày mùa thêm náo nhiệt.
Nhà tôi có xe bò, nên việc chở một sào lạc đem từ đồng về nhà cũng không phải khó khăn lắm. Thông thường, nếu đã xén lá thì sẽ chở chừng một xe nặng, chất cao như cây rơm. Nếu lạc cây tốt mà không xén lá, thì thường phải chở làm hai chuyến cho nhẹ, mà cũng đỡ cồng kềnh. Khi thoảng, tôi xin được đánh xe bò, trên đường về leo lên xe ngồi, nghe gió lùa qua tai, nghe mùi vị ngày mùa mằn mặn thấm dần vào miệng qua những giọt mồ hôi. Trên đường, những xe lạc như những cây rơm di động nối đuôi nhau, tựa như những đoàn xe trong kháng chiến chầm chậm tiến về phía trước. Những cảm giác khó tả trào lên, nhìn về nơi xa xăm, những áng mây đủ màu của chiều hè tuyệt đẹp, đủ các hình thù, chỉ cần khéo tưởng tượng một chút là có thể đoán ra đủ thứ trên đời.
Sau khi đem về nhà, lạc sẽ được vặt tách riêng phần củ và phần gốc, sau đó phơi riêng gốc và củ. Phần gốc sẽ được phơi riêng để làm củi đun, phần củ được phơi cho tới khi giòn, sau đó sẳn bớt những củ óc, củ sâu và những rác, rồi mới đóng bao hoặc cho vào chum. Trường hợp chưa thể vặt tách riêng củ ra được, thì sẽ phơi thêm một vài nắng, sau đó đánh đống, che đậy cẩn thận để vặt dần.
Tôi là một đứa khá háu ăn lạc, từ lạc tươi, lạc luộc, cho đến lạc khô, lạc rang, món nào tôi cũng khoái. Mùa lạc, hầu như lúc nào trong túi áo túi quần cũng có lạc, khi thoảng buồn mồn thì ăn, đã thế nhà tôi lại có giếng khơi, nước trong mà ngọt, mùa hè uống mát rượi, mỗi khi đi nắng về múc lấy một gầu, đánh vài ngụm thì tỉnh hết cả người. Nhà tôi hay lo tôi ăn lạc sống uống nước lã đau bụng, nên hay quát lắm. Tôi cũng dạ dạ vâng vâng, nhưng lát sau lại đâu vào đấy. Trẻ con ở quê mà, đứa nào chẳng vậy.
Đấy là những năm thời tiết thuận lợi, giời không mưa liên miên, dân tình còn thong thả. Chứ những năm mưa gió, nước ngập khắp từ bái thấp đến đồng cao, chỉ hai ba hôm lạc đã bắt đầu thối, dân làng lại hô hào khai đi nhổ chạy. Đối với lạc nước, nhà nào có đất phơi thì sẽ đem luôn về phơi, nhà nào không có đất phơi thì phải chống thành từng mô, chổng phần gốc và củ lên trên giời, sap cho không tiếp xúc với nước thì tốt. Nói chung, nhổ lạc nước thì khổ lắm, nên chẳng có gì vui cả, nhưng chuyện gì càng khổ thì người ta lại càng nhớ lâu. Nhưng nhớ thì cũng kệ, bởi cũng chẳng ai muốn nhắc chuyện khổ mà làm gì.
Khi trên đồng hầu hết đã thu hoạch xong, những cánh đồng bát ngát màu xanh của lạc giờ chỉ còn là những khu đất trống bao la. Sắp tới, trên những khoảng đất trống đó người ta sẽ làm vụ mới, mà chủ yếu là gieo sạ lúa. Lúc bấy giờ, là lúc trẻ con tranh thủ những ngày nghỉ hè lên đồng đi mót lạc, mót là mót những củ lạc rơi, những bụi lạc còn sót lại. Việc mót lạc không chỉ vì tránh để sót gây lãng phí, mà còn là để về sau lạc sót lại không lên gây hại cho lúa. Những đêm mưa, sáng hôm sau trẻ con lên đồng từ rất sớm, bởi mưa thì những củ lạc sót sẽ chòi ra, khi thoảng chỗ nào nước ngập lạc còn trôi dạt về một góc, chỉ cần vốc lấy. Những lúc như vậy, chỉ biết sướng thôi chứ chả rảnh để nghĩ đến mưa gió thì ảnh hưởng đến mùa vụ ra sao cả đâu, với lại trẻ con nghĩ nhiều mệt lắm.
Các bạn ạ, dầu là giời mưa hay giời nắng, năm được mùa hay năm thất bát, thì trên quê tôi cũng chẳng vì thế mà thiếu đi những niềm vui, những tiếng cười. Ấy là những năm ngược về trước, chứ dăm ba năm nay, tôi ít được ở nhà lâu nên những cảm nhận cũng ít dần đi. Ngoài Hà Nội, tuy đông vui tấp nập, nhưng nhiều lúc nhớ nhà, nhớ quê kinh khủng. Nhất là những ngày mùa như thế này, nghĩ đến bố mẹ vất vả ở quê mà lòng thêm rạo rực, khi thoảng ngồi trên tầng thượng trông về phương nam mà trong lòng không khỏi nghĩ xa xăm.
Đêm nay giời lác đác mưa, không khí êm dịu, ngoài Hà Nội tôi chỉ biết gửi chút tâm sự qua câu chuyện về ngày mùa quê tôi. Cũng là để không quên đi những ngày vất vả nhưng cũng ắp kỷ niệm của tuổi thơ. Giờ đây, và có những lúc tôi thèm cái cảm giác được đi chân đất chạy trên những cánh đồng một cách lạ thường.
Hà Nội, đêm 22 tháng 6 năm 2014.
(Bách Quỷ Trúc Lâm)

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Tấm bia gửi giỗ chùa Phúc Đức (Quốc Oai) và vài lời sám hối



            Mùa hè năm thứ ba (tháng 8 năm 2013), lớp chúng tôi đi Thực địa ở Hà Tây, có dịp nghỉ tại chùa Phúc Đức (phủ Quốc Oai) độ mươi ngày. Những ngày đó, chúng tôi đã được nhà chùa tạo điều kiện và giúp đỡ rất nhiều. Hôm trước ngày về, thầy Trụ trì có đưa cho chúng tôi một cuốn sách cúng chép tay bằng Hán văn, nói rằng nhờ lớp dịch hộ, khi đó tôi thay mặt lớp nhận lời. Sau đó, chúng tôi trở về trường tiếp tục những bộn bề của công việc học hành, rồi viết Báo cáo, chuẩn bị năm học mới, mà chẳng biết vô tình hay hữu ý quên mất lời nhờ cậy của nhà chùa.
Chừng hơn hai tháng sau, tôi giật mình khi nhận được cuộc gọi cùa thầy Giác Hảo bên chùa gọi điện hỏi về việc dịch cuốn sách cúng kia, tôi mới tá hỏa và bắt đầu phiên âm cho sách, chừng hơn nửa tháng sau thì gần như đã hoàn thành việc phiên âm, chỉ còn ít phần “thần chú” do là dân ngoại đạo nên tôi còn để ngỏ. Lúc đó, bắt đầu thi học kì I bên Nhân văn, và học bên Ngoại ngữ nên tôi lại “hữu ý” quên một lần nữa. Lại chừng hơn một tháng (có lẽ là gần hai tháng sau), thầy bên chùa lại gọi điện hỏi về việc dịch cuốn sách. Lúc này, nếu tính đúng ra thì đã hơn bốn tháng (hay gần 5 tháng) kể từ ngày nhà chùa nhờ việc mà chúng tôi chưa thể làm xong. Chúng tôi lại xin nhà chùa cho khất thêm một thời gian nữa. Nhưng rồi, dường như mọi việc đã đi quá xa khi chúng tôi cứ mãi khất lần như vậy, thời gian thì cứ trôi đi mà mọi thứ vẫn cứ y nguyên không chút tiến triển. Lúc này, để đối phó, tôi đã dịch trước tấm bia gửi giỗ để gửi trước cho nhà chùa yên tâm, bởi tấm bia ngắn, chỉ có dăm ba chỗ chữ bị mất hay bị mờ là khó nhìn ra, còn toàn bộ bia thì đơn giản. Khi dịch xong tấm bia gửi giỗ kia, tôi gửi ngay cho bên chùa để họ yên tâm.
Lại chừng một thời gian sau, nhà chùa lại gọi điện hỏi về cuốn sách, lúc này thực là đã quá lâu, mọi việc dường như đã ra ngoài tầm kiểm soát của tôi. Tôi dịch vội một đoạn của cuốn sách cúng đó, thấy hơi trúc trắc, tôi gọi điện bảo với hai người trong lớp dịch chung với tôi để cho kịp gửi lại nhà chùa. Thế nhưng, việc ít người thì làm không được, nhưng nhiều người thì làm cũng không xong. Chúng tôi lại mỗi người một phách, mà rồi cũng chẳng làm thêm được gì.
Lúc bấy giờ, tôi thực sự rơi vào hoang mang, có chút lo sợ. Một cảm giác áy náy, xấu hổ dâng lên đến tột độ trong người tôi. Tôi không biết phải giải thích sao cho việc vô trách nhiệm của mình. Tôi đã phụ lại những lời gửi gắm của nhà chùa – nơi đã tận tình với chúng tôi trong suốt một tuần lễ Thực địa. Mấy hôm sau, chúng tôi đã gửi lại chùa cuốn sách dịch còn dở dang, lòng tôi đầy xấu hổ xen lẫn lo lắng về một điều gì đó xa xăm. Thực sự, tôi chỉ muốn chui xuống đất!
Giờ nghĩ lại, tôi lại càng thêm áy náy, xấu hổ và tự trách về sự vô trách nhiệm của mình. Nhìn lại bốn năm Đại học, tôi luôn cố gắng để hoàn thành mọi việc một cách hoàn chỉnh nhất và tốt nhất, nhưng sao với việc của nhà chùa nhờ cậy thì tôi lại hững hờ và vô tâm đến vậy.
Dưới đây, tôi xin trích phần Phiên âm và Dịch nghĩa của tấm bia gửi giỗ được đặt trong chùa, xem như một lời sám hối muộn màng của một kẻ lơ đễnh.
1.      Phiên âm: Ký kị tích
Quốc Oai phủ, Yên Sơn huyện, Phúc Sài xã. Nguyễn Thị Sơ hiệu Diệu Trái, tự niệm tiền sinh quan quả, tiền hậu vô y. Chí ư Mậu Dần niên thập nguyệt nhị thập ngũ nhật, bản xã dữ thiền tăng tu lý bản tự, cai thị quyên xuất thanh tiền thập quan công đức, tái cúng phì điền nhất sào tại Đồng Mai xứ dĩ vi hương đăng cúng. Phật thánh Ất Mùi niên, bản xã hội thiện tái tu lý tự tượng, cai thị hựu cúng tiền thập quan, hựu trí kí kị điền [nhất sào] tại Đầm Xanh xứ?, bán sào tại Vĩnh Lộc địa phận, Đồng [Tháp] xứ. Kì giá điền hợp nhất thu bản tự tăng canh.
Đệ niên, [thập] nhất nguyệt sơ tứ nhật kị, thời bản tự tăng nghi tác oản quả các tam thập phẩm, hảo kim ngân nhị bách hồ, kim ngân tam đỉnh, [? ? ], phạn nhất bàn, thượng hiến cúng Phật, hạ cấp vong linh Nguyễn thị hiệu Diệu Trái. Hiển khảo Nguyễn Quý công, hiệu Phúc Lộc. Tỉ hiệu Diệu Tập. Thiết khủng vô bằng thất truyền giá sự, dĩ hữu từ trình bản xã, nguyện khắc phương thạch chí chi vu tự nội, vi: “kí kị tích.” Bản xã hiệp hứa y dĩ hợp khắc thạch bi vĩnh truyền vu hậu vân nhĩ!
Minh Mệnh thập lục niên lục nguyệt thập lục nhật.
2.      Dịch nghĩa: Bia gửi giỗ
Bà Nguyễn Thị Sơ hiệu là Diệu Trái, người xã Phúc Sài, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai. [Bà] tự nghĩ rằng, trước đây sống đơn độc, về sau [khi trăm tuổi] không có nơi trông cậy [việc hương hỏa]. Đến ngày 25 tháng 10 năm Mậu Dần, xã ta cùng với các thầy nhà chùa sửa chữa chùa làng, Bà đã cúng công đức 10 quan thanh tiền, lại cúng một sào ruộng tốt ở xứ Đồng Mai?[1] để cúng làm hương hỏa. Phật thánh năm Ất Mùi, xã ta lại sửa chữa lại tượng trong chùa, Bà lại cúng thêm 10 quan tiền, và thu xếp [cúng thêm] một sào ruộng ở xứ Đầm Xanh?[2] và nửa sào ruộng ở địa phận Vĩnh Lộc, xứ Đồng Tháp, để gửi giỗ. [Số] ruộng đó gộp lại giao cho các thầy nhà chùa canh tác [để thu hoa lợi].
Hằng năm, giỗ [bà] vào ngày mồng 4 tháng 11, thì các thầy nhà chùa phải chuẩn bị oản quả ba chục, hai trăm tiền hồ, ba đỉnh bạc, [? ?], một mâm cơm, trên thì cúng Phật, dưới thì cúng cho vong linh của bà họ Nguyễn, hiệu là Diệu Trái. Hiển khảo là ông Nguyễn Quý, hiệu là Phúc Lộc. Hiển tỉ hiệu là Diệu Tập. [Bà] trộm lo rằng, nếu không có bằng cớ thì việc [gửi giỗ] này sẽ bị thất truyền, [nên trước] đã có lời thưa với xã ta, xin khắc vào đá vuông đặt ở trong chùa, tên là “kí kị tích” (bia gửi giỗ). [Người trong] xã ta đã cùng đồng ý khắc bia đá để mãi truyền về sau!
Ngày 16 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 16.
(Ngày 16 tháng 6 năm 1835)
Ghi chú:
-         Những chi tiết để trong ngoặc vuông [   ] là do người dịch thêm vào.
-         Những chi tiết chưa thể xác định, chúng tôi để dấu chấm hỏi (?) để đợi ngày sau hoặc là có cao nhân đính chính lại.


[1] Đầm Mai – tên địa danh. Chúng tôi phiên như vậy nhưng chưa thể kiểm chứng được có đích thực địa danh đấy có tên là Đầm Mai hay không, nên tạm phiên là Đầm Mai, đợi ngày sau đính chính lại.
[2][2][2] Đầm Xanh – tên địa danh. Chúng tôi phiên như vậy nhưng chưa thể kiểm chứng được có đích thực địa danh đấy có tên là Đầm Xanh hay không, nên tạm phiên là Đầm Xanh, đợi ngày sau đính chính lại.

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

Nhật ký giảng đường

         Một đoạn nhật kí giảng đường, lâu rồi nên không lưu giữ được nhiều, tiếc lắm ấy, hjx. :(
         Sáng ngày 21 tháng 01 năm 2013. Chúng tôi mở đầu học kì II năm thứ 3 với môn Kinh Lễ (tiết 3 – 4) tại phòng BC 402 . Sáng hôm đó, tôi đến trường từ rất sớm và vào tiệm sách Thư viện mua vở ghi. Khi trở ra, tôi gặp bác Diệu Ngọc, sau đó tôi quay vào tiệm sách cùng với bác. Khi vào tiệm sách, chúng tôi gặp Huyền Ngọc cũng đang mua sách hay gì đó trong đấy.
Mua xong, chúng tôi lên phòng. Lúc đó, mới có mấy người đến, một lúc sau thì mọi người đến đông đủ cả. Hôm đó, k56 cũng học Hán văn Lý – Trần ngay ở dưới tầng 3.
       Tôi xuống phòng chờ lấy nước cho thầy thì gặp Văn Duy và thầy Phạm công Văn Khoái, tôi đứng lại chào thầy, đúng lúc Hữu Quảng đi xuống. Tôi đương hỏi thầy về điểm Niên luận thì thầy Đinh phu tử đến, hai thầy lên Khoa. Ba đứa chúng tôi (Duy, Quảng, Sơn) vào phòng chờ Giảng viên lấy nước rồi lên phòng.
         Khi tôi đi giặt rẻ lau bảng, lúc lên gặp thầy Đinh, hai thầy trò cùng đi lên lớp, tôi đi phía sau thầy. Tôi hỏi thầy về việc học môn học kì này, thầy nói rằng “có gì đâu, cứ vui vẻ, thoải mái mà học”. Đấy đúng là tinh thần của việc học mà Thầy đã giảng ở môn Luận ngữ.
         Khi lên đến phòng, vào giờ học, thầy điểm lại lớp, ôn lại vài chuyện sau 1 học kì Thầy không giảng dạy lớp, thầy nói rằng từ nay sẽ dạy lớp đến khi lớp ra trường.
         Vào học tiết 1, đến khi giải lao Thầy nói nghỉ 30 phút, sau đó sẽ học đến 11h30 luôn. Khi đó, tôi với mấy người Luyên, Duy, Vũ, Quảng, đi uống trà đá.
         Khi chúng tôi trở vào lớp thì gặp mấy người lên văn phòng Khoa lấy bảng điểm Niên Luận. Điểm Niên luận của lớp khá cao, rất nhiều điểm 10, tôi cũng nằm trong nhóm được 10, hehe.
          Chúng tôi lên lớp học tiếp, trong giờ học cũng không có gì lạ cả, thầy giảng bài, trò nghe giảng và ghi chép. Thời gian như đọng lại, tình thầy trò cũng đậm sâu theo từng con chữ. Những thói quen đã tạo thành nếp, như một phần không thể thiếu của cuộc sống. Những bộn bề cũng lắng xuống theo lời giảng của thầy. Chúng tôi may mắn khi được thầy khai tâm cho những nét chữ Hán đầu tiên, những kỉ niệm nơi giảng đường, những lời khuyên bảo khi thầy tâm sự, những lời nghiêm nghị khi thầy giận, nhưng hơn hết vẫn là những tiếng cười giòn tan khi thầy trò cùng hiểu nhau khi nói đến một vấn đề nào đó. Chao ôi, có còn gì hơn những điều ấy được chăng?
          Lúc về, thầy đưa tài liệu cho lớp để photo.
          Kết thúc buổi học đầu tiên của kì II năm thứ 3. :)

         Tân Mai ngày 21 tháng 01 năm 2013.
         Bách Quỷ Trúc Lâm viết.

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Kiếm Hồ Kí - Phương Đình Nguyễn Văn Siêu



Mấy ngày hôm nay, trên một số báo mạng đang bàn tán xôn xao về tờ lịch của ngân hàng HSB, tiếp đó là bài báo của VH&TT phỏng vấn anh Trần Quang Đức, nên tôi quyết định đăng bài này lên Blog cá nhân, chỉ với một ý nghĩ rằng, nếu mình biết được điều gì thì nên chia sẻ để mọi người cùng biết.
Bản thân tôi thì không dám có lộng bàn gì ở đây, nhưng tôi trộm nghĩ rằng, đã là truyền thuyết thì không nên xác định rạch ròi là đúng hay là sai, mà điều quan trọng là ý nghĩa của câu chuyện đấy đem lại là gì. Rõ ràng, trong bối cảnh xã hội cách đây vài trăm năm thì không phải chuyện gì cũng có thể làm sáng tỏ, cho nên chuyện ‘tam sao thất bản’ là một điều hết sức bình thường. Năm ngoái, tôi có được học về một tác phẩm của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, nói về Hồ Kiếm và nguồn gốc tên gọi của Hồ. Tôi rất thích câu “hồ dĩ kiếm danh giả, hựu bất chuyên tại kiếm, dĩ kì hữu kiếm chi công nhĩ” (Hồ có tên là Hồ Kiếm không phải chỉ chuyên ở kiếm, mà ấy là do công của kiếm đem lại). Cứ theo câu nói trên, thì cách tiếp nhận của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu trong bối cảnh xã hội đương thời thật là đáng quý, đáng khen.
Bài kí về Hồ Kiếm là tác phẩm của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, rút ra từ Phương Đình văn tập, đã từng được đăng trên Tạp chí Nam Phong, nay tôi dùng lại. Theo Tạp chí Nam Phong, phàm là những chỗ khó hiểu còn nghi vấn trong tác phẩm thì được dùng [ ] để đánh dấu, để mong được bậc “bác nhã quân tử” đính chính giúp. Dưới đây là phần chữ Hán, phiên âm và dịch nghĩa của bài kí.

1.     Chữ Hán: 劍湖記 (方亭阮文超 )
余幼已聞有劍湖, 而未曾到。往者移住軍屯,其左岸除以路。昔之于迴灌莽,人所不得至,今爲熟徑。予或旦而過之, 三五魚舟蒙露而出, 中有水鳥數四群自相離合若避之者; 或暮而過之, 鈴柝在樓, 足下微波互答, 不數十步漸覺寒氣侵人; 或日乘興而往焉, 買舟獨泛, 可霎辰而盡; 捨舟登湖中之山, 披蒙葺傍草廟, 四其望, 邑屋華麗隨樹隱見者,半士女繽紛出没。其上者半,俯視湖中, 則無不見之者, 又不啻宇宙大觀焉. [既而曰: 城市中有此觀常在也. 然而至者數矣, 未嘗有一字]. 明命八年秋,予友陳得英者始家於湖畔,遇邀以歸, 坐之曰: “樂哉! 洋洋乎! 子其記之。: “記則盡之矣。: “毋乃小之歟。: “觀無窮而言有盡.予非小之也。然使我而不凝於物,雖滄海在前猶以爲小; 使物得以役我, 雖壑溪猶以爲大, 而矧於湖。得英曰: “雖然, 斯遊也而不與人共之乎?” 嗟夫! 天地間, 景有同遊, 人無盡合; 林麓烟水之幽邃, 覩之者或為之沉嘻激慨而樂者愈形其樂; 樓臺風物之繁華, 得之者或爲之酣歌醉舞而憂者終不以此易其憂。以我旦暮間所得,亦且不同; 觀者各自取可也, 而何言? 因飲之酒, 酒半, 又曰: “吾欲聞所爲劍湖者, 笑答之曰: 子欲予記以存之歟? 待予記而以存, 湖失久矣。不見前内湖者, 今而累瓦其上矣。七畝湖者,今而通衢其中矣。旗臺者, 昔之蓮湖者。泉局者, 昔之水軍湖者。 亦有入月猶湖, 出月則瓦營矣。 去日猶營,來日則平湖矣。然今古不同, 廢興異跡。 [此而并引, 何乃存歟?] 。 子欲聞, 予蓋有聞焉。昔黎葉將僭於莫, 襄翼帝幸此湖, 先失其開國劍, 索之不得, 而湖始以劍名。 [方且] 黎未興之始, 我國復爲明有, 來官者, 徒利其國而外其人, 賢者屈服, 民不聊生。太祖應天順人起而驅之, 降者萬餘送歸其國, 不忍殺。至今四百餘年, 黎再亡矣。猶能永無北患,雖感其恩而三尺之威尙在。然則, 湖以劍名者, 又不在劍, 以其有劍之功耳。不然, 黎中興後, 鄭帥嘗卽西湖為行宫, 植以蓮, 今亦存, 人何獨不以蓮名是湖者!
2.     Phiên âm: Kiếm hồ kí (Phương Đình Nguyễn Văn Siêu)
Dư ấu dĩ văn hữu Kiếm hồ, nhi vị tằng đáo. Vãng giả di trú quân đồn, kì tả ngạn trừ dĩ lộ. Tích chi vu hồi quán mãng, nhân sở bất đắc chí, kim vi thục kính. Dư hoặc đán nhi quá chi, tam ngũ ngư chu mông lộ nhi xuất, trung hữu thủy điểu sổ tứ, quần tự tương li hợp nhược tị chi giả; hoặc mộ nhi quá chi, linh thác tại lâu, túc hạ vi ba hỗ đáp, bất sổ thập bộ tiệm giác hàn khí xâm nhân; hoặc nhật thừa hứng nhi quá yên, mãi chu độc phiếm, khả siếp thời nhi tận. Xá chu đăng hồ trung chi sơn, phi mông tập bàng thảo miếu, tứ kì vọng, ấp ốc hoa lệ tùy thụ ẩn hiện giả, bán sĩ nữ tân phân xuất một. Kì thượng giả, bán phủ thị hồ trung, tắc vô bất kiến chi giả, hựu bất thí vũ trụ đại quan yên. [Kí nhi viết: thành thị trung hữu thử quan thường tại dã. Nhiên nhi chí giả sổ hĩ, vị thường hữu nhất tự]. Minh Mệnh bát niên thu, dư hữu Trần Đắc Anh giả thủy gia ư hồ bạn, ngộ yêu dĩ quy, tọa chi viết: “Lạc tai! Dương dương hồ! Tử kì kí chi”. Viết: “Kí tắc tận chi hĩ”. Viết: “Vô nãi tiểu chi dư?” Viết: “Quan vô cùng nhi ngôn hữu tận. Dư phi tiểu chi dã. Nhiên sử ngã nhi bất ngưng ư vật, tuy thương hải tại tiền  do dĩ vi tiểu; sử vật đắc dĩ dịch ngã, tuy hác khê do dĩ vi đại, nhi thẩn ư hồ”. Đắc Anh viết: “Tuy nhiên, tư du dã nhi bất dữ nhân cộng chi hồ?” Ta phù! Thiên địa gian, cảnh hữu đồng du, nhân vô tận hợp; lâm lộc yên thủy u thúy, đổ chi giả hoặc vị chi trầm hy kích khái nhi lạc giả dũ hình kì lạc; lâu đài phong vật chi phồn hoa, đắc chi giả hoặc vị chi ham ca túy vũ nhi ưu giả chung bất dĩ thử dịch kì ưu. Dĩ ngã đán mộ gian sở đắc, diệc thả bất đồng; đổ giả các tự thủ khả dã, nhi hà ngôn? Nhân ẩm chi tửu, tửu bán, hựu viết: “Ngô dục văn sở vi Kiếm hồ giả”. Tiếu đáp chi viết: “Tử dục dư kí dĩ tồn chi dư? Đãi dư kí nhi dĩ tồn, Hồ thất cửu hĩ”. Bất kiến tiền nội Hồ giả, kim nhi lũy ngõa kì thượng hĩ. Thất Mẫu hồ giả, kim nhi thông cù kì trung hĩ. Kì Đài giả, tích chi liên hồ giả. Tuyền cục giả, tích chi Thủy Quân hồ giả. Diệc hữu nhập nguyệt do hồ, xuất nguyệt tắc ngõa doanh hĩ. Khứ nhật do doanh, lai nhật tắc bình hồ hĩ. Nhiên kim cổ bất đồng, phế hưng dị tích. [Thử nhi tịnh dẫn, hà nãi tồn dư?]. Tử dục văn, dư cái hữu văn yên. Tích Lê diệp tương tiếm ư Mạc, Tương Dực đế hạnh thử hồ, tiên thất kì khai quốc kiếm, sách chi bất đắc, nhi hồ thủy dĩ kiếm danh. [Phương thả] Lê vị hưng chi thủy, ngã quốc phục vi Minh hữu, lai quan giả đồ lợi kì quốc nhi ngoại kì nhân, hiền giả khuất phục, dân bất liêu sinh. Thái tổ ứng thiên thuận nhân khởi nhi khu chi, hàng giả vạn dư tống quy kì quốc, bất nhẫn sát. Chí kim tứ bách dư niên, Lê tái vong hĩ. Do năng vĩnh vô Bắc hoạn, tuy cảm kì ân nhi tam xích chi uy thượng tại. Nhiên tắc, hồ dĩ kiếm danh giả, hựu bất chuyên tại kiếm, dĩ kì hữu kiếm chi công nhĩ. Bất nhiên, Lê Trung Hưng hậu. Trịnh soái  thường tức Tây hồ vi hành cung, thực dĩ liên, kim do tồn, nhân hà độc bất dĩ liên danh thị hồ giả!
3.     Tạm dịch: Bài ký về Hồ Kiếm – Phương Đình Nguyễn Văn Siêu
Ta thuở bé đã từng nghe có Hồ Kiếm, nhưng chưa từng được đến. Gần đây mới dời đồn đóng quân đi, mé trái của Hồ có chừa ra một lối đi. Trước đây rậm rạp quanh co, là chỗ mà người ta không được phép lui tới, nay đã thành đường nhẵn. Tôi có khi qua đấy vào khi sáng sớm, [thấy] dăm ba chiếc thuyền chài đội sương ló ra, trên mặt hồ vài ba con chim nước xúm lại rồi tản ra như tránh người vậy; hoặc có khi tôi qua đấy vào lúc chiều hôm, trên lầu vang tiếng mõ, dưới chân sóng nhẹ đuổi nhau, đi vài mươi bước thì dần cảm thấy khí lạnh thấm vào người. Có hôm tôi nhân hứng qua đấy, thuê thuyền bơi một mình, chỉ  thoáng lát là bơi hết hồ, rồi rời thuyền lên núi ở giữa hồ, vạch cỏ gianh bên cạnh miếu xưa, nhìn ra bốn phía, thấy nhà cửa hoa lệ, thấp thoáng ẩn hiện, phải đến phân nửa là trai gái tấp nập ra vào. Bóng rủ xuống hồ, cúi nhìn thì không gì là không thấy[1], thực chẳng khác gì một đại kì quan trong vũ trụ. [Thế rồi tôi nói: Trong chốn thị thành có một đại kì quan còn mãi đó, người đến thăm chỗ này thực nhiều lắm, nhưng chưa có ai ghi lại lấy một chữ]. Mùa thu, năm Minh Mệnh thứ 8 [tức năm 1827], bạn tôi là ông Trần Đắc Anh cất nhà bên bờ Hồ, gặp tôi mới mời về nhà, mời tôi ngồi và nói rằng: Vui thay! Cảnh hồ. Ngài hãy làm một bài văn về nó đi. Tôi bảo rằng: Nếu chép ra thì hết mất! Thế sao không rút ngắn nó lại? Rằng: Kì quan thì vô cùng, mà ngôn từ thì có hạn. Tôi không thể rút gọn lại được đâu! Thế nhưng, nếu ta không hòa mình vào cảnh vật, thì dẫu có đứng trước biển xanh thì cũng chỉ thấy bé nhỏ. Nếu để vật hút hồn ta, thì ngòi rãnh cũng trở nên rộng lớn. Huống chi là đối với Hồ này. Ông Đắc Anh nói: “Chẳng nhẽ Ngài lại không muốn chia sẻ cuộc du chơi [Hồ] lần này với mọi người hay sao? Than ôi! Trong khoảng trời đất, cảnh vốn cùng chơi, người đâu hợp hết. Nơi sông núi xa xôi, có người thấy mà tỏ lòng cảm khái, vui vẻ, nên cái vui lại càng vui. Nơi lâu đài phong vật phồn hoa, người đến đó, có người hoặc là say mê ca múa, mà rốt cuộc thì buồn vẫn không đổi lòng buồn. Ngay như với tôi đây, những cảm nhận buổi sớm thì chiều đã khác. Người xem tự cảm nhận những những điều mà tự mình cho là đẹp, thì sao còn nói nên lời mà làm gì? Rồi [chúng tôi] mời nhau uống rượu, khi đã ngà ngà, ông Đắc Anh lại nói: Tôi muốn được biết Hồ vì sao lại được gọi là Hồ Kiếm! Tôi cười mà đáp rằng: Ngài muốn tôi nghi chép lại để Hồ được giữ lại mãi hay sao? Chờ đến lúc tôi ghi lại Hồ mới còn thì Hồ đã mất từ lâu rồi. Chẳng thấy [chỗ] mà trước đây là Hồ, giờ đã ngói lợp thành nhà. Hồ Bảy Mẫu, giờ đã thông đường lớn. Cột cờ, trước đây là hồ sen. Cục đúc tiền, trước đây là hồ Thủy Quân. Cũng có khi trăng lặn [tức cuối tháng] là hồ, trăng ló [đầu tháng] đã thành nhà cửa. Hôm qua hãy còn là doanh trại, hôm nay đã thành hồ phẳng rồi. Thế nhưng kim cổ chẳng giống nhau, phế hưng xưa nay cũng khác. [Mới dẫn ra mà có còn đâu?]. Ngài muốn nghe, tôi cũng có điều kể cho Ngài được biết về Hồ. Xưa, khi nhà Lê sắp bị nhà Mạc tiếm, vua Tương Dực (1509-1516) đến chơi Hồ này [Hồ Kiếm], trước đã làm mất thanh kiếm khai quốc ở đây, tìm mãi mà chẳng được, bởi thế nên hồ có tên là Hồ Kiếm. Hơn nữa, lúc đầu khi nhà Lê chưa dấy, nước ta thuộc vào nhà Minh, bọn quan Tàu chỉ lo làm lợi cho nước của chúng mà chẳng đếm xỉa gì đến dân ta, người hiền chịu khuất phục, dân không sống nổi. Thái tổ [Lê Lợi] đã nổi dậy đánh đuổi chúng, quân giặc đầu hàng có đến hàng vạn mà đều tha cho về nước, chứ không nỡ giết, đến nay đã hơn 400 năm, nhà Lê lại mất lần nữa. Thế nhưng, nhờ đấy mà nước ta không còn phải lo mối giặc phương Bắc. Dẫu cảm kích ơn xưa, mà uy của thanh gươm ba tấc hãy còn. Vậy thì, Hồ có tên là Hồ Kiếm không phải chỉ chuyên ở kiếm, mà ấy là do công của kiếm đem lại. Chẳng thế, sau Lê Trung Hưng, chúa Trịnh thường đến Hồ Tây làm nơi hành cung, trồng hoa sen ở đấy, đến nay hãy còn, [thế thì] sao người ta không dùng sen để đặt tên cho hồ!

Hoằng Thành - Hoằng Hóa - Thanh Hóa, giờ Tý ngày 28 tết năm Giáp Ngọ (2014).
Lê Hoắc Phong

[1] Bóng in xuống mặt hồ.