Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

Bài tựa Lễ ký tập thuyết



1.      Chữ Hán
禮記集說序
前聖繼天立極之道莫大於禮後聖垂世立敎之書亦莫先於禮禮儀三百威儀三千孰非精神心術之所寓故能與天地同其節四代損益世遠經殘其詳不可得聞矣儀禮十七篇戴記四十九篇先儒表章庸學遂爲千萬世道學之淵源其四十七篇之文雖純駁不同然義之淺深同異誠未昜言也鄭氏祖鄭之從雖有他說不復收載固爲可恨然其灼然可據者不可昜也近世應氏集解於雜記大小記等篇皆闕而不釋噫愼終追遠其關於人倫世道非細故而可略哉先君子師事雙峯先 生十有四年以是經三領鄉書爲開慶名進士所得於師門講論甚多中罹煨燼隻字不遺不肖孤僭不自量會華衍繹而附以臆見之言名曰禮記集說蓋欲以坦明之說使初學讀之卽了其義庶幾章句通則緼奥自見正不必髙爲議論而卑視訓詁之辭也書成甚欲就正于四方有道之士而衰年多疾遊歷良艱姑藏巾笥以俟來哲治敎方興知禮者或有取焉亦愚者千慮之一爾。
至治壬戌良月旣望後學東匯澤陳澔序。
2.      Phiên âm: Lễ ký tập thuyết tự
Tiền thánh kế thiên lập cực chi đạo, mạc đại ư lễ. Hậu thánh thùy thế lập giáo chi thư diệc mạc tiên ư lễ. Lễ nghi tam bách, uy nghi tam thiên, thục phi tinh thần tâm thuật chi sở ngụ, cố năng dữ thiên địa đồng kì tiết. Tứ đại tổn ích, thế viễn kinh tàn, kì tường bất khả đắc văn hỹ. Nghi Lễ thập thất thiên, Đái Ký tứ thập cửu thiên, tiên Nho biểu chương Dung Học, toại vị thiên vạn thế đạo học chi uyên nguyên. Kỳ tứ thập thất thiên chi văn, tuy thuần bác bất đồng, nhiên nghĩa chi tiễn thâm đồng dị, thành vị ngôn dã. Trịnh thị tổ sấm vĩ, Khổng sớ duy Trịnh chi tòng, tuy hữu tha thuyết, bất phục thu tải, cố vi khả hận. Nhiên kỳ chước nhiên khả cứ giả, bất khả dịch giả.
Cận thế Ưng thị tập giải ư Tạp Ký, Đại Tiểu ký đẳng thiên, giai khuyết nhi bất thích. Y! “Thận chung truy viễn”, kỳ khuyết ư nhân luân thế đạo chi tế, cố phi khả lược tai?
Tiên quân tử sư sự Song Phong tiên sinh thập hựu tứ niên, dĩ thị Kinh tam lĩnh hương thư, vi Khai Khánh danh tiến sĩ, sở đắc ư sư môn giảng luận thậm đa, trung ly ổi tẫn, chích tự bất di. Bất tiếu cô, kê bất tự lượng, hội túy diễn dịch, nhi phụ dĩ ức kiến chi ngôn, danh viết Lễ ký tập thuyết.
Cái dục dĩ thản minh chi thuyết, sử sơ học độc chi tức liễu kì nghĩa, thứ cơ chương cú thông, tắc uẩn áo tự hiện, chính bất tất cao vi nghị luận nhi ty thị huấn cố chi từ dã.
Thư thành hựu thậm dục tựu chính vu tứ phương hữu đạo chi sĩ, nhi suy niên đa tật, du lịch lương gian, cô tàng cân từ, dĩ sĩ lai triết. Trị hiệu phương hưng, tri lễ giả hoặc hữu thủ yên, diệc ngu giả thiên lự chi nhất nhĩ.
Trí Trị Nhân Tuất lương nguyệt ký vọng.
Đông Hối Trạch Trần Hạo tự.
3.      Dịch nghĩa: Bài tựa sách Lễ ký tập thuyết
Các bậc thánh xưa nối trời lập chuẩn không gì lớn hơn lễ. Sách vở của các bậc thánh sau dựng giáo để lại cho đời cũng không gì trước hơn lễ. Ba trăm lễ nghi, ba nghìn uy nghi, không có chỗ nào là không ẩn chứa cái tinh thần tâm thuật, nên có thể cùng sánh với phẩm tiết trời đất. Bốn đời thêm bớt, đời xa kinh nát, sự tường tận của sách cũng chẳng còn được nghe nữa. Mười bảy thiên Nghi lễ, bốn mươi chín thiên Đại Tiểu ký, tiên Nho đề cao hai thiên Đại Học và Trung Dung, từ đó làm nguồn gốc cho đạo học muôn đời. Lời văn của 47 thiên ấy, tuy là thuần tạp khác nhau, nhưng nghĩa lý nông sâu thì có khác, thực là chưa dễ nói. Họ Trịnh noi theo sấm vĩ, cũng chỉ có họ Trịnh là theo sớ của họ Khổng, dẫu là các thuyết khác nhau, song cũng không được thu vào mà ghi lại, vốn đã lấy làm giận lắm. Thế nhưng những chỗ rõ ràng thì cũng có thể dựa vào đấy được, thực không dễ thay đổi.
Gần đây họ Ưng làm tập giải mà các thiên như Tạp ký, Đại Tiểu ký lại bỏ sót mà không giải thích gì cả. Than ôi! “Thận chung truy viễn”, sự liên quan của nó đến đạo trời, đạo người là không nhỏ vậy, há có thể lược bỏ đi được hay sao?
Cha tôi theo học tiên sinh Song Phong được 14 năm, nhân cái kinh sách này mà đã ba lần đảm trách việc học quan ở cấp hương, đỗ tiến sĩ năm Khai Khánh, những điều lĩnh hội được từ thầy giảng giải cũng thật nhiều, nhưng nửa chừng mắc phải nạn binh hỏa, một chữ cũng chẳng sót lại. Kẻ bất tiếu hèn kém tôi thật không biết tự lượng sức mình, gom các thuyết lại với nhau, phát huy giảng giải mà thêm vào kiến giải của riêng mình, đặt tên là Lễ ký tập thuyết.
Đại khái là muốn đem cái thuyết dễ hiểu này để giúp cho những kẻ mới học có thể đọc một cái là có thể hiểu luôn được nghĩa lý, thông suốt được câu cú, thì những chỗ uẩn diệu cao siêu cũng tự nhiên rõ ràng. Không phải là nghị luận những điều cao siêu mà xem nhẹ những lời chú giải từ ngữ.
Sách viết xong lại muốn đem đến cho kẻ sĩ có đạo ở bốn phương chính sửa cho, nhưng tuổi cao sức yếu, đi lại khó khăn, chỉ đành tạm cất vào rương để đợi kẻ hiền triết ngày sau. Ngày nay việc trị hiệu hưng thịnh, người biết lễ hoặc là có ai tiếp thu được sách này, âu cũng là một trong muôn điều mong muốn của kẻ ngu tôi
Ngày 16 tháng 2 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Khai Khánh.
Trần Hạo viết lời tựa ở Đông Hối Trạch.

Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

Bài tựa Thư Kinh tập truyện



1.      Ch Hán
      書集傳序
慶元己未冬 先生文公 令沈作書集傳 明年先生歿 又十年 始克成篇 總若干萬言 嗚呼 書豈易言哉 二帝三王 治天下之大經大法 皆載此書 而淺見薄識 豈足以盡發蘊奧 且生於數千載之下 而欲講明於數千載之前 亦已難矣 然二帝三王之治 本於道 二帝三王之道 本於心 得其心則道與治 固可得而言矣 何者 精一執中 堯舜禹相授之心法也 建中建極 商湯周武相傳之心法也 曰德曰仁曰敬曰誠 言雖殊而理則一 無非所以明此心之妙也 至於言天則嚴其心之所自出 言民則謹其心之所由施 禮樂敎化 心之發也 典章文物 心之著也 家齊國治而天下平 心之推也 心之德 其盛矣乎 二帝三王 存此心者也 夏桀商受 亡此心者也 太甲成王 困而存此心者也 存則治 亡則亂 治亂之分 顧其心之存不存如何耳 後世人主 有志於二帝三王之治 不可不求其道 有志於二帝三王之道 不可不求其心  求心之要 舍是書何以哉 沈自受讀以來 沈潛其義 參考衆說 融會貫通 迺敢折衷 微辭奧旨 多述舊聞 二典禹謨 先生蓋嘗是正 手澤尙新 嗚呼惜哉 集傳 本先生所命 故凡引用師說 不復識別 四代之書 分爲六卷 文以時異 治爾同 聖人之心 見於書 猶化工之妙 著於物 非精深 不能識也 是傳也 於堯舜禹湯文武周公之心 雖未必能造其微 於堯舜禹湯文武周公之書 因是訓詁 亦可得其指意之大略矣
    
己巳三月旣望 武夷蔡沈
2.      Phiên âm: Thư tập truyện tự
Khánh Nguyên kỉ mùi đông, tiên sinh Văn Công linh Trừng tác Thư tập truyện. minh niên tiên sinh một, hựu thập niên thủy khắc thành biên, tổng nhược can vạn ngôn.
Ô hô! Thư khởi dị ngôn tai! Nhị Đế tam Vương trị thiên hạ chi đại kinh đại pháp giai tải thử thư, nhi thiển kiến bạc thức khởi túc dĩ tận phát uẩn áo? Thả sinh ư sổ thiên tải chi hậu nhi dục giảng minh ư sổ thiên tải chi tiền diệc dĩ nan hỹ. Nhiên Nhị Đế Tam Vương chi trị bản ư đạo, Nhị Đế Tam Vương chi đạo bản ư tâm. Đắc kì tâm tắc đạo dữ trị cố khả đắc nhi ngôn hỹ.
Hà giả? Tinh nhất chấp trung, Nghiêu, Thuấn, Vũ tương thụ chi tâm pháp dã. Kiến trung kiến cực, Thương Thang, Chu Vũ tương truyền chi tâm pháp dã. Viết đức, viết nhân, viết kính, viết thành, ngôn tuy thù nhi lý tắc nhất. Vô phi sở dĩ minh thử tâm chi diệu dã. Chí ư ngôn thiên, tắc nghiêm kì tâm chi sở tự xuất. Ngôn dân tắc cẩn kì tâm chi sở do thi. Lễ nhạc giáo hóa, tâm chi sở phát dã, điển chương văn vật tâm chi trứ dã. Gia tề, quốc trị nhi thiên hạ bình, tâm chi suy dã. Tâm chi đức, kì thịnh hỹ hồ!
Nhị Đế Tam Vương tồn thử tâm giả dã. Hạ Kiệt, Thương Trụ vong thử tâm giả dã. Thái Giáp, Thành Vương khốn nhi tồn thử tâm giả dã. Tồn tắc trị, vong tắc loạn. Trì loạn chi phận, cố kì tâm tồn. Bất tồn như hà nhĩ?
Hậu thế chi nhân chủ hữu chí ư Nhị Đế Tam Vương trị, bất khả bất cầu kì đạo. Hữu chí ư Nhị Đế Tam Vương chi đạo, bất khả bất cầu kì tâm. Cầu tâm chi yếu xả thị thư hà dĩ tai!
Trừng[1] tự thụ độc dĩ lai, trầm tiềm kì nghĩa, tham khảo chúng thuyết, dung hội quán thông, nãi cảm triết trung. Vi từ áo chỉ đa thuật, cựu văn nhị  điển tam mô. Tiên sinh thường thị chính, thủ trạch thượng tân. Ô hô! Tích tai!
Tập truyện bản ư tiên sinh sở mệnh, cố phàm dẫn dụng sư thuyết bất phục chí biệt. Tứ đại chi thư phân vi lục quyển, văn dĩ thời dị, trị dĩ đạo đồng. Thánh nhân chi tâm hiện ư thư, do hóa công chi diệu trứ ư vật, phi tinh thâm bất năng thức dã. Thị truyện dã, ư Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu Công chi tâm. Tuy vị tất năng tháo kì vi ư Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu Công chi thư. Nhân thị huấn hỗ, diệc khả đắc kì chỉ ý chi đại lược hỹ.
Gia Định, Kỷ Tị tam nguyệt ký vọng. Vũ Di Sái Trừng tự.
3.      Dịch nghĩa: Bài tựa sách Thư tập truyện
Mùa đông năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khánh Nguyên, tiên sinh Văn Công[2] để cho tôi làm Thư tập truyện. Năm sau thì tiên sinh qua đời, lại phải mười năm sau thì sách mới hoàn thành, cả thảy có chừng vài vạn chữ.
Chao ôi! Sách há lại dễ nói hay sao? Cái phép lớn trị nước mà các bậc Nhị Đế Tam Vương dùng để cai trị thiên hạ đều được ghi chép đầy đủ trong sách này, nhưng kiến thức nông cạn há lại đủ để làm sáng tỏ hết những vẻ huyền vi, màu nhiệm. Vả lại, sinh ra ở nghìn năm sau mà lại muốn làm sáng tỏ chuyện của nghìn năm trước cũng là khó lắm vậy. Nhưng cái gốc trị của bậc Nhị Đế Tam Vương là ở đạo, mà gốc trong đạo của các vị ấy lại là nằm ở tâm. Lĩnh hội được cái tâm ấy thì đạo và trị vốn đã có thể nói được.
Như vậy là như thế nào? Tinh nhất chấp trung, là tâm pháp mà Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đại Vũ trao cho nhau. Kiến trung kiến cực, là tâm pháp mà vua Thang nhà Thương, vua Vũ nhà Chu truyền lại cho nhau.
Nói rằng: đức, thân, kính, thành. Tuy lời nói có khác nhau nhưng lý thì chỉ có một. Không phải là không có chỗ nào làm sáng tỏ sự màu nhiệm của tâm ấy. Nói đến thiên là nói đến chỗ mà tâm mình từ đó được sinh ra. Nói đến dân là nói đến chỗ tâm mình từ đấy thi hành ra. Lễ nhạc giáo hóa là sự phát ra ở tâm. Điển chương văn vật là sự tỏ bày của tâm. Tề gia, trị quốc mà làm cho thiên hạ được thái bình là cái chỗ xiển phát ra của tâm. Đức của tâm thịnh lắm thay!
Hai vị Đế, ba vị Vương gìn giữ được tâm ấy. Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương đánh mất đi tâm ấy. Thái Giáp và Thành Vương thì lại phải vất vả lắm mới giữ được tâm ấy. Giữ được tâm ấy thì trị, mất đi tâm ấy thì loạn. Sự phân ra trị hay loạn là phải xem ở chỗ có giữ gìn được tâm ấy như thế nào mà thôi. Nếu chẳng giữ được tâm ấy thì sẽ thế nào đây?
Các bậc đế vương đời sau có chí với nền trị của Nhị Đế Tam Vương thì không thể không cầu lấy đạo ấy. Người có chí với việc học theo đạo của Nhị Đế Tam Vương thì không thể không cầu lấy tâm ấy. Then chốt của việc cầu tâm mà lại bỏ đi sách thì biết làm như thế nào?
Trừng tôi từ lúc nhận mệnh thầy làm Tập truyện cho đến nay, đắm chìm vào nghĩa lý, tham khảo thuyết của các nhà, dung hội thông suốt, liền dám chọn ra một điều cho là hợp lý nhất. Lời văn thâm sâu, tông chỉ uyên áo, phần nhiều là thuật lại những gì được nghe lại từ thầy. Hai chương điển, ba chương mô đã được thầy ta đích thân sửa cho, ơn tay thầy sửa vẫn còn như mới. Chao ôi! Tiếc lắm thay. Tập truyện vốn là do thầy ta bảo ta làm, cho nên những chỗ dẫn dùng lời thầy thì ta không ghi riêng ra. Sách xưa phân làm sáu quyển, văn theo thời nên khác nhau, nhưng nền trị theo đạo nên giống nhau.
Tâm của thánh nhân hiển bày trên sách, như là sự màu nhiệm của tạo hóa hiển bày trên vật. Nếu chẳng phải la có kiến thức uyên thâm thì chẳng dễ nào mà lĩnh hội được.
Tập truyện này đối với tâm của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu Công tuy là chưa đạt đến chỗ uyên vi, huyền diệu. Nhưng mà đối với sách của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ, Chu Công thì dựa vào sách cũng có thể lĩnh hội được chỗ đại lược, ý chỉ của sách.
Ngày 16 tháng 03 năm Kỷ Tị, niên hiệu Gia Định. Sái Trừng viết tựa ở Vũ Di.
Bách Quỷ Trúc Lâm gượng dịch.





[1]Tức Sái Trừng.
[2]Tức Chu Tử - Chu Hy.             

Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

Bài tựa sách Trung Dung



Phần dịch nghĩa:
Sách Trung dung vì sao mà được làm ra vậy? Thầy Tử Tư lo rằng cái đạo học sẽ bị thất truyền mà làm ra sách ấy. Có lẽ là từ thời thượng cổ, các vị thánh thần nối trời lập chuẩn, mà rồi cái đạo thống cũng được truyền cho tới tận ngày nay. Nếu xem trong kinh sách, thì cái câu “Doãn chấp quyết trung” là lời mà vua Nghiêu truyền lại cho Đế Thuấn lúc nhường ngôi, cái câu “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung  là lời mà Đế Thuấn truyền lại cho vua Vũ lúc nhường ngôi. Một lời của Đế Nghiêu đã là tột cùng, tường tận, thế mà Đế Thuấn lại bổ sung thêm vào 3 câu, thì cũng chỉ là để làm sáng tỏ thêm cho một câu của Đế Nghiêu, hẳn như vậy mà về sau mới có thể may mắn không bị sai lạc đi.
Có lẽ là đã từng bàn luận về sự “hư linh tri giác” của tâm, nó đã thống nhất, thế mà lại còn phân ra sự khác nhau giữa “nhân tâm” và “đạo tâm”. Nếu lấy việc đấy, hoặc là do bởi sự khác nhau của hình khí. Hoặc vốn là do ở tính mệnh, mà dùng đó để mà phân ra sự khác nhau của “tri giác”.  Cho nên, hoặc là nguy hại mà không được yên ổn, hoặc là vi diệu mà khó tỏ bày. Thế nhưng, con người ta thì không ai mà không có những biểu hiện đấy, cho nên dù là bậc “thượng trí” cũng không thể không có “nhân tâm”, mà rồi cũng không thể không có cái tính ấy; cho nên dù là kẻ “hạ ngu” thì cũng không thể không có cái gọi là “đạo tâm”. Hai loại người đấy cùng ở lẫn trong một cái khoảng nhỏ bé mà không biết làm thế nào để làm cho chúng tách biệt nhau, cho nên nguy hại càng thêm nguy hại,  mà vi diệu càng thêm vi diệu, thế rồi sự công bình của thiên  lý rốt cuộc cũng không biết lấy gì để mà gạt bỏ được sự riêng tư của nhân dục. “Tinh” tức là xem xét cái khoảng giữa hai sự vật mà không có hỗn tạp, “nhất” tức là giữ sự thuần chính của bản tâm mà không xa lìa.
          Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đại Vũ là những bậc đại hiền trong thiên hạ. Các vị ấy đem thiên hạ truyền lại cho nhau là những việc lớn trong thiên hạ. Các vị ấy làm các bậc đại hiền, làm những việc lớn trong thiên hạ, mà coi việc truyền và nhận thiên hạ, cẩn thận cảnh giới trong lời nói mà cũng không vượt quá như vậy.  Đấy là cái lý của thiên hạ, há có thể thêm vào hay bớt ra được nữa. Từ đấy cho tới nay, các vị thánh nối tiếp lẫn nhau mà làm bậc quân vương trong thiên hạ, như: Thành Thang, Văn Vương, Vũ Vương; Cao Giao, Y Phó, Chu Triệu, làm những bậc bầy tôi; cũng đều lấy đấy để mà tiếp thừa đạo thống. Và rồi có thầy của ta, tuy không có được những cái danh vị[1] cao quý kia, nhưng lại có thể nối các bậc thánh đời trước, mở ra cái học ngày nay, tuy cái công lao không đúng với địa vị nhưng đức hạnh thì hơn cả Nghiêu Thuấn. Nhưng mà lúc đó có thể nhìn mà biết được thì chỉ có cái truyền của thầy Nhan Tử (Nhan Uyên) và thầy Tăng Tử (Tăng Sâm) là cái tông học đích truyền. Cho đến khi thầy Tăng Tử truyền lại, thì lại truyền cho thầy Tử Tư là cháu đích tôn của Khổng Tử, thì lúc đó đã cách xa các bậc thánh đời trước,  mà rồi các dị đoan tà thuyết cũng nổi lên. Thầy Tử Tư sợ rằng nếu để càng lâu thì càng mất đi cái bản chân của đạo thống, mà rồi đem cái ý của những lời mà Đế Nghiêu, Đế Thuấn truyền lại cho nhau đến nay. Cái bản thể là những lời thường ngày nghe được của cha và thầy, thêm sự suy diễn công phu mà làm ra sách này, để mà dẫn dắt cho kẻ hậu học. Có lẽ là vì sự lo lắng sâu xa, cho nên lời của sách ấy mật thiết; cái suy tư của thầy (Tử Tư) lâu xa nên lời trong sách tường tận. Sách ấy nói “thiên mệnh chi vị tính” tức là nói về “đạo tâm”,  sách ấy nói “trạch thiện cố chấp” tức là nói về “tinh nhất”, sách ấy nói “quân tử chấp trung tức là nói đến “chấp trung”. Các đời sau nối tiếp nhau cũng đã hơn nghìn năm, thế mà lời nói trong sách ấy vẫn không bị sai khác đi, mà vẫn giống như lời của người xưa. Trải qua quá trình tìm tuyển các sách của tiên thánh, sở dĩ đưa các đầu mối, làm rõ sự uẩn áo, thì chưa có gì là không được sáng tỏ và tường tận như sách này. Từ đấy mà sách lại được truyền đến cho Mạnh Tử, mà rồi để làm sáng tỏ thêm cái nghĩa cho sách đó, để rồi tiếp lại được cái đạo thống của tiên thánh, đến khi Mạnh tử mất đi thì cái đạo thống lại bị thất truyền. Thế rồi sự truyền của đạo thống cũng không thể vượt ra được khỏi sự ràng buộc của câu chữ lời nói. Và rồi cái dị đoan tà thuyết nổi lên ngày càng lớn mạnh, đến lúc Lão và Phật cùng xuất hiện thì tuy là gần với cái lý nhưng mà lại xa rời cái bản chân thực tại. Nhưng mà may thay, cái sách ấy không bị mai một đi, cho nên khi anh em Trình Tử[2] xuất hiện, có được cái chỗ khảo cứu để mà tiếp thừa cái đạo thống đã thất truyền cả nghìn năm nay. Còn có được cả những căn cứ để mà loại bỏ những sai trái của bên 2 nhà Lão và Phật. Có lẽ cái công lao của Tử Tư vào sách ấy là to lớn, mà nếu như ngoài Trình Tử ra thì không có ai có thể dựa vào những lời trong sách ấy mà có thể lĩnh hội được cái tâm ý bên trong. Tiếc thay! Cái điều mà hai thầy dùng để nói lại không được truyền lại, mà chỉ có những điều ghi chép lại của họ Thạch và những điều ghi chép cẩn thận của môn nhân. Vậy nên cái nghĩa lớn tuy được sáng tỏ mà lời nói lại huyền vi không được rõ ràng. Đến những điều vi thuyết của học trò nhị Trình, tuy tương đối tường tận mà nhiều chỗ cũng được phát huy, tuy có nhiều hơn những lời của thầy mà lại phóng túng hơn so với Lão và Phật.
          Hy tôi từ nhỏ đã từng được đọc mà trộm nghĩ rằng nên suy xét lại những điều đã bị ẩn mất lâu nay. Đại khái là vào một buổi sáng của năm, bỗng nhiên tựa như có được gì đó để mà lĩnh hội được những điều cốt yếu, mà sau đó mới mới dám dung hội các thuyết lại để mà xem xét kỹ càng các ý, rồi làm chương cú cho thiên sách, để đợi các hậu nhân quân tử đời sau. Mà có một số người cùng chung chí hướng, lại tin dùng sách của họ Thạch, loại bỏ những điều tạp nhiễm phồn loạn. Tên là dùng để ghi lại tập lược và ghi những ý đã được luận bàn thêm bớt, biện biệt những điều còn nghi hoặc, để nhờ đời sau. Mà về sau cái yếu chỉ của sách, phân chia mạch lạc quán thông, rõ ràng giản lược đều phải dựa vào đấy, to lớn nhỏ bé cũng đều có ở trong sách ấy, mà rồi những điều được mất, trong ngoài sáng tỏ, mà cũng đến được cái thú cùng tận của sách. Tuy đối với sự truyền thừa của đạo thống thì không dám bàn bừa, nhưng đối với kẻ sĩ mới theo học thì cũng có người hứng thú với việc đấy, thì cũng giúp ích cho việc nâng cao học vấn và vươn xa về đức hạnh.
          Ngày Mậu Thân, tháng ba, mùa xuân năm Kỷ Dậu. Chu Hy viết tựa ở Tân An.

Hà Nội, tháng mạnh xuân năm Nhâm Thìn.
Bách Quỷ Trúc Lâm dịch.
 P/s: Bài dịch này tôi dịch cách đây hơn 1 năm, để làm tài liệu học tập môn chuyên ngành. Tuy biết có đôi chỗ chưa thông, nhưng tôi vẫn bạo dạn đăng lên. Hy vọng gặp được bậc "bác nhã quân tử" rộng lòng chỉ điểm, cùng giúp nhau để hoàn thiện hơn.


[1] Trỏ đế vị.
[2] Trình Di và Trình Hạo, gọi chung là Nhị Trình.