Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

Mùa Lạc



Năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng thời gian này, quê tôi lại vào vụ thu hoạch lạc, mà tôi hay gọi với cái tên “mùa lạc” như tên một tác phẩm văn học của nhà văn Nguyễn Khải.
Mùa lạc năm nay có phần muộn hơn năm ngoái, cũng muộn hơn so với những năm về trước. Tôi nhớ những năm trước, cứ vào khoảng tết Mồng năm (tết Đoan Ngọ) dân làng đã rộn ràng thu hoạch, nhưng năm nay mãi đến tận bây giờ dân làng mới bắt đầu xuống ruộng. Nguyên nhân chính là do lạc năm nay tỉa muộn, mà nguyên nhân của việc tỉa muộn là do tiết trời lạnh. Như thường lệ, hằng năm dân làng tỉa vào trước tết, ngay sau khi thu hoạch vụ Đông, tỉa xong chuẩn bị nghỉ sắm tết là vừa. Không chỉ có lạc, mà ngay cả lúa cũng như vậy, cũng được cấy trước tết, khi thoảng có nhà nào muộn thì mới để ra giêng. Lịch xưa nay là vậy, nhưng mấy năm nay thời tiết thay đổi dữ quá, trước tết tiết trời rét căm căm, không thể ra đồng được xuống giống được. Trường hợp có tỉa được lạc, hay cấy được lúa ra đồng thì cũng bị lạnh mà hỏng hết giống, nên dân làng thường nấn ná để ra giêng, khi trời đã hửng ấm.
Lạc là cây màu ngắn ngày, từ khi tỉa đến khi thu hoạch chỉ chừng bốn tháng. Nhưng trong khoảng bốn tháng đó có biết bao công đoạn chăm sóc, từ làm cỏ, sáo đất, bón phân, cho tới vun gốc, sau đó mới yên tâm nghỉ ngơi cho đến khi thu hoạch. Đấy là nói khi bình thường, chứ khi thoảng giống xấu, lạc bị mất nhiều thì còn phải đi tỉa dặm (tỉa bù khoảng đất bị mất). Lạc có thể tỉa thóc hoặc tỉa mầm, tùy vào đất khô hay đất ẩm, trời ấm hay trời lạnh, đất bái cao hay đất bái thấp. Tỉa thóc thì nhanh, nhưng phần trăm lên không được như tỉa mầm, nhưng tỉa mầm thì lại lâu và mất thời gian hơn.
Trong kỳ nghỉ tết vừa rồi, tôi có dịp được đi tỉa lạc cùng với bố mẹ và thằng em trai, nhưng bây giờ đến khi thu hoạch thì tôi không thể về được. Trước đây, khi còn ở nhà thì năm nào tôi cũng cùng với gia đình, anh em đi nhổ lạc, thậm chí những năm khi tôi mới bắt đầu ra Hà Nội học, mỗi dịp mùa vụ tôi vẫn tranh thủ về giúp gia đình. Nhưng việc học ngày một bận, tôi cũng ít có thời gian về thăm nhà, nói gì đến về giúp đỡ bố mẹ những khi nông vụ.
Năm nay tôi không thể về được, nên chuyện của năm nay tôi hiện chưa được rõ, tôi đi nói chuyện trước đây vậy. Những chuyện thu hoạch thì thực ra năm nào cũng như năm nào, nên cũng chẳng có gì mới lạ. Vào mùa thu hoạch là khi lạc đã già chừng 80%, mà cây lạc cũng bắt đầu rượi xuống, bà con háo hức xuống ruộng thu hoạch. Chuyện đồng quê, tưởng chừng mệt nhọc, nhưng cũng không ít tiếng cười và niềm vui.
Bởi mùa này ban ngày trời rất nắng, chừng 9 – 10 giờ sáng thì đã không thể chịu được nữa rồi, nên bà con thường đi nhổ lạc vào buổi tối hoặc lúc về sáng. Tôi còn nhớ một lần nhà tôi đi nhổ lạc lúc về sáng, khi đó khoảng 3 giờ sáng, khi đó trăng hãy còn tỏ, gió mùa nhẹ thổi, vắng tiếng ếch nhái, tí tách tiếng dế, nghe như một bản nhạc đồng quê. Nhà tôi đi sớm là vậy, nhưng đến ruộng thì đã có nhà nhổ được cả sào rồi, chắc có lẽ họ đi từ tối qua. Bố tôi không quên đem theo cái điếu cày, trước khi xắn tay là thì không quên bắn một điếu. Cũng nhờ cái điếu, khi thoảng mấy chú, mấy bác gần đó chạy lại hút thuốc, chuyện trò xua tan đi cái nỗi vất vả của nghề nông. Cái nghề nông gắn bó từ thuở cha ông, tuy vất vả, cực nhọc nhưng yên bình, đậm tình người.
Trời càng về sáng, tiếng chào hỏi, chuyện trò trên khắp cánh đồng càng trở nên rôm rả hơn. Những câu chuyện phiếm, những lời so sánh về mùa màng năm nay với các năm trước, rồi những chuyện trên trời dưới biển cũng không hề ngớt trên môi những người nông dân vui tính, hóm hỉnh. Khi thoảng được chuyện hay, mọi người lại cười phá lên, nhưng tay vẫn đều đều quơ nhổ từng hàng cây lạc đều tăm tắp. Khi thoảng, một vài người đi qua lại hỏi vọng xuống xem lạc năm nay có nhiều củ không, và những tiếng chào đáp trả kèm theo những câu trả lời.
Nắng sớm nhẹ vắt qua muôn vật, một vài khoảnh lạc hãy còn xanh, lấm tấm lẫn trong màu xanh của lá lạc là một vài chấm vàng tươi của hoa lạc. Mà cũng lạ, ngay cả những nhà cây đã bắt đầu lụi, vẫn thấy có điểm vài màu vàng tươi của hoa lạc. Những gốc ngô lô chô nhô lên giữa bạt ngày màu xanh của lá lạc, quê tôi thường tỉa ngô ở hai bên của vạt lạt, nhưng do ngô tốt, lạc hay bị vóng, nên giờ ít nhà trông xen ngô vào lạc. Thực ra, trước đây trồng xen ngô vào lạc như vậy là để lấy ngô để chăn nuôi, chứ giờ thức ăn chăn nuôi sẵn nên người ta cũng không quan trọng việc trồng xen ngô nữa.
Lạc sau khi nhổ lên, giũ sạch đất, sẽ được phơi sơ tại ruộng trước khi đem về, cho nên buổi trưa mới phái cất công ở lại ruộng trông coi là như vậy. Quê tôi, cũng tùy vào cây lạc có tốt hay không mà người ta có xén bớt phần lá đi hay không. Việc xén bớt lá đi là vì một số lí do, trước là để đem phần gốc và củ về cho nhẹ hơn, sau là lấy phần lá phơi khô làm thức ăn mùa mưa cho trâu bò, hoặc có nhà dùng lá lạc tươi làm phân bón, nói chung là không để lãng phí chút sản phẩm phụ nào của đồng ruộng. Giữa trưa sang chiều, khi lớp trên đã khô, chúng tôi sẽ đi trở ngược từng khom lại để cho khô cả mặt dưới, việc này tuy không lâu như nhổ, nhưng dưới trưa hè thì cũng đủ để mướt mồ hôi.
Dưới cái nắng tháng Năm, những bọn trẻ con như chúng tôi được giao nhiệm vụ trông lạc, tất nhiên là ngồi trong bóng cây, hoặc chỗ mát nào đó, chứ không phải là ngồi ngoài nắng. Ở quê, dẫu nắng nhưng không gian bao la, gió Nam đưa ngược lên rất khoan khoái. Lại chưa kể khi thoảng có cánh diều no gió, nằm gác chân chữ ngũ, mắt liu diu, vừa gật gù vừa ngắm cánh diều bé tí trên cao. Khi thoảng ngủ quên, tỉnh dậy thì mặt giời cũng xuống gần đến ngọn tre.
Chiều đến, tùy theo điều kiện từng nhà mà các phương thức đem lạc về nhà cũng khác nhau. Có nhà dùng xe trâu, xe bò, có nhà thuê công nông, thậm chí có nhà vẫn dùng xe thồ. Trên những cánh đồng, trên khắp đường đi, đâu đâu cũng lạc, những tiếng cười nói, những câu hát vui, những tiếng í ới gọi nhau, càng làm cho cảnh ngày mùa thêm náo nhiệt.
Nhà tôi có xe bò, nên việc chở một sào lạc đem từ đồng về nhà cũng không phải khó khăn lắm. Thông thường, nếu đã xén lá thì sẽ chở chừng một xe nặng, chất cao như cây rơm. Nếu lạc cây tốt mà không xén lá, thì thường phải chở làm hai chuyến cho nhẹ, mà cũng đỡ cồng kềnh. Khi thoảng, tôi xin được đánh xe bò, trên đường về leo lên xe ngồi, nghe gió lùa qua tai, nghe mùi vị ngày mùa mằn mặn thấm dần vào miệng qua những giọt mồ hôi. Trên đường, những xe lạc như những cây rơm di động nối đuôi nhau, tựa như những đoàn xe trong kháng chiến chầm chậm tiến về phía trước. Những cảm giác khó tả trào lên, nhìn về nơi xa xăm, những áng mây đủ màu của chiều hè tuyệt đẹp, đủ các hình thù, chỉ cần khéo tưởng tượng một chút là có thể đoán ra đủ thứ trên đời.
Sau khi đem về nhà, lạc sẽ được vặt tách riêng phần củ và phần gốc, sau đó phơi riêng gốc và củ. Phần gốc sẽ được phơi riêng để làm củi đun, phần củ được phơi cho tới khi giòn, sau đó sẳn bớt những củ óc, củ sâu và những rác, rồi mới đóng bao hoặc cho vào chum. Trường hợp chưa thể vặt tách riêng củ ra được, thì sẽ phơi thêm một vài nắng, sau đó đánh đống, che đậy cẩn thận để vặt dần.
Tôi là một đứa khá háu ăn lạc, từ lạc tươi, lạc luộc, cho đến lạc khô, lạc rang, món nào tôi cũng khoái. Mùa lạc, hầu như lúc nào trong túi áo túi quần cũng có lạc, khi thoảng buồn mồn thì ăn, đã thế nhà tôi lại có giếng khơi, nước trong mà ngọt, mùa hè uống mát rượi, mỗi khi đi nắng về múc lấy một gầu, đánh vài ngụm thì tỉnh hết cả người. Nhà tôi hay lo tôi ăn lạc sống uống nước lã đau bụng, nên hay quát lắm. Tôi cũng dạ dạ vâng vâng, nhưng lát sau lại đâu vào đấy. Trẻ con ở quê mà, đứa nào chẳng vậy.
Đấy là những năm thời tiết thuận lợi, giời không mưa liên miên, dân tình còn thong thả. Chứ những năm mưa gió, nước ngập khắp từ bái thấp đến đồng cao, chỉ hai ba hôm lạc đã bắt đầu thối, dân làng lại hô hào khai đi nhổ chạy. Đối với lạc nước, nhà nào có đất phơi thì sẽ đem luôn về phơi, nhà nào không có đất phơi thì phải chống thành từng mô, chổng phần gốc và củ lên trên giời, sap cho không tiếp xúc với nước thì tốt. Nói chung, nhổ lạc nước thì khổ lắm, nên chẳng có gì vui cả, nhưng chuyện gì càng khổ thì người ta lại càng nhớ lâu. Nhưng nhớ thì cũng kệ, bởi cũng chẳng ai muốn nhắc chuyện khổ mà làm gì.
Khi trên đồng hầu hết đã thu hoạch xong, những cánh đồng bát ngát màu xanh của lạc giờ chỉ còn là những khu đất trống bao la. Sắp tới, trên những khoảng đất trống đó người ta sẽ làm vụ mới, mà chủ yếu là gieo sạ lúa. Lúc bấy giờ, là lúc trẻ con tranh thủ những ngày nghỉ hè lên đồng đi mót lạc, mót là mót những củ lạc rơi, những bụi lạc còn sót lại. Việc mót lạc không chỉ vì tránh để sót gây lãng phí, mà còn là để về sau lạc sót lại không lên gây hại cho lúa. Những đêm mưa, sáng hôm sau trẻ con lên đồng từ rất sớm, bởi mưa thì những củ lạc sót sẽ chòi ra, khi thoảng chỗ nào nước ngập lạc còn trôi dạt về một góc, chỉ cần vốc lấy. Những lúc như vậy, chỉ biết sướng thôi chứ chả rảnh để nghĩ đến mưa gió thì ảnh hưởng đến mùa vụ ra sao cả đâu, với lại trẻ con nghĩ nhiều mệt lắm.
Các bạn ạ, dầu là giời mưa hay giời nắng, năm được mùa hay năm thất bát, thì trên quê tôi cũng chẳng vì thế mà thiếu đi những niềm vui, những tiếng cười. Ấy là những năm ngược về trước, chứ dăm ba năm nay, tôi ít được ở nhà lâu nên những cảm nhận cũng ít dần đi. Ngoài Hà Nội, tuy đông vui tấp nập, nhưng nhiều lúc nhớ nhà, nhớ quê kinh khủng. Nhất là những ngày mùa như thế này, nghĩ đến bố mẹ vất vả ở quê mà lòng thêm rạo rực, khi thoảng ngồi trên tầng thượng trông về phương nam mà trong lòng không khỏi nghĩ xa xăm.
Đêm nay giời lác đác mưa, không khí êm dịu, ngoài Hà Nội tôi chỉ biết gửi chút tâm sự qua câu chuyện về ngày mùa quê tôi. Cũng là để không quên đi những ngày vất vả nhưng cũng ắp kỷ niệm của tuổi thơ. Giờ đây, và có những lúc tôi thèm cái cảm giác được đi chân đất chạy trên những cánh đồng một cách lạ thường.
Hà Nội, đêm 22 tháng 6 năm 2014.
(Bách Quỷ Trúc Lâm)

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Tấm bia gửi giỗ chùa Phúc Đức (Quốc Oai) và vài lời sám hối



            Mùa hè năm thứ ba (tháng 8 năm 2013), lớp chúng tôi đi Thực địa ở Hà Tây, có dịp nghỉ tại chùa Phúc Đức (phủ Quốc Oai) độ mươi ngày. Những ngày đó, chúng tôi đã được nhà chùa tạo điều kiện và giúp đỡ rất nhiều. Hôm trước ngày về, thầy Trụ trì có đưa cho chúng tôi một cuốn sách cúng chép tay bằng Hán văn, nói rằng nhờ lớp dịch hộ, khi đó tôi thay mặt lớp nhận lời. Sau đó, chúng tôi trở về trường tiếp tục những bộn bề của công việc học hành, rồi viết Báo cáo, chuẩn bị năm học mới, mà chẳng biết vô tình hay hữu ý quên mất lời nhờ cậy của nhà chùa.
Chừng hơn hai tháng sau, tôi giật mình khi nhận được cuộc gọi cùa thầy Giác Hảo bên chùa gọi điện hỏi về việc dịch cuốn sách cúng kia, tôi mới tá hỏa và bắt đầu phiên âm cho sách, chừng hơn nửa tháng sau thì gần như đã hoàn thành việc phiên âm, chỉ còn ít phần “thần chú” do là dân ngoại đạo nên tôi còn để ngỏ. Lúc đó, bắt đầu thi học kì I bên Nhân văn, và học bên Ngoại ngữ nên tôi lại “hữu ý” quên một lần nữa. Lại chừng hơn một tháng (có lẽ là gần hai tháng sau), thầy bên chùa lại gọi điện hỏi về việc dịch cuốn sách. Lúc này, nếu tính đúng ra thì đã hơn bốn tháng (hay gần 5 tháng) kể từ ngày nhà chùa nhờ việc mà chúng tôi chưa thể làm xong. Chúng tôi lại xin nhà chùa cho khất thêm một thời gian nữa. Nhưng rồi, dường như mọi việc đã đi quá xa khi chúng tôi cứ mãi khất lần như vậy, thời gian thì cứ trôi đi mà mọi thứ vẫn cứ y nguyên không chút tiến triển. Lúc này, để đối phó, tôi đã dịch trước tấm bia gửi giỗ để gửi trước cho nhà chùa yên tâm, bởi tấm bia ngắn, chỉ có dăm ba chỗ chữ bị mất hay bị mờ là khó nhìn ra, còn toàn bộ bia thì đơn giản. Khi dịch xong tấm bia gửi giỗ kia, tôi gửi ngay cho bên chùa để họ yên tâm.
Lại chừng một thời gian sau, nhà chùa lại gọi điện hỏi về cuốn sách, lúc này thực là đã quá lâu, mọi việc dường như đã ra ngoài tầm kiểm soát của tôi. Tôi dịch vội một đoạn của cuốn sách cúng đó, thấy hơi trúc trắc, tôi gọi điện bảo với hai người trong lớp dịch chung với tôi để cho kịp gửi lại nhà chùa. Thế nhưng, việc ít người thì làm không được, nhưng nhiều người thì làm cũng không xong. Chúng tôi lại mỗi người một phách, mà rồi cũng chẳng làm thêm được gì.
Lúc bấy giờ, tôi thực sự rơi vào hoang mang, có chút lo sợ. Một cảm giác áy náy, xấu hổ dâng lên đến tột độ trong người tôi. Tôi không biết phải giải thích sao cho việc vô trách nhiệm của mình. Tôi đã phụ lại những lời gửi gắm của nhà chùa – nơi đã tận tình với chúng tôi trong suốt một tuần lễ Thực địa. Mấy hôm sau, chúng tôi đã gửi lại chùa cuốn sách dịch còn dở dang, lòng tôi đầy xấu hổ xen lẫn lo lắng về một điều gì đó xa xăm. Thực sự, tôi chỉ muốn chui xuống đất!
Giờ nghĩ lại, tôi lại càng thêm áy náy, xấu hổ và tự trách về sự vô trách nhiệm của mình. Nhìn lại bốn năm Đại học, tôi luôn cố gắng để hoàn thành mọi việc một cách hoàn chỉnh nhất và tốt nhất, nhưng sao với việc của nhà chùa nhờ cậy thì tôi lại hững hờ và vô tâm đến vậy.
Dưới đây, tôi xin trích phần Phiên âm và Dịch nghĩa của tấm bia gửi giỗ được đặt trong chùa, xem như một lời sám hối muộn màng của một kẻ lơ đễnh.
1.      Phiên âm: Ký kị tích
Quốc Oai phủ, Yên Sơn huyện, Phúc Sài xã. Nguyễn Thị Sơ hiệu Diệu Trái, tự niệm tiền sinh quan quả, tiền hậu vô y. Chí ư Mậu Dần niên thập nguyệt nhị thập ngũ nhật, bản xã dữ thiền tăng tu lý bản tự, cai thị quyên xuất thanh tiền thập quan công đức, tái cúng phì điền nhất sào tại Đồng Mai xứ dĩ vi hương đăng cúng. Phật thánh Ất Mùi niên, bản xã hội thiện tái tu lý tự tượng, cai thị hựu cúng tiền thập quan, hựu trí kí kị điền [nhất sào] tại Đầm Xanh xứ?, bán sào tại Vĩnh Lộc địa phận, Đồng [Tháp] xứ. Kì giá điền hợp nhất thu bản tự tăng canh.
Đệ niên, [thập] nhất nguyệt sơ tứ nhật kị, thời bản tự tăng nghi tác oản quả các tam thập phẩm, hảo kim ngân nhị bách hồ, kim ngân tam đỉnh, [? ? ], phạn nhất bàn, thượng hiến cúng Phật, hạ cấp vong linh Nguyễn thị hiệu Diệu Trái. Hiển khảo Nguyễn Quý công, hiệu Phúc Lộc. Tỉ hiệu Diệu Tập. Thiết khủng vô bằng thất truyền giá sự, dĩ hữu từ trình bản xã, nguyện khắc phương thạch chí chi vu tự nội, vi: “kí kị tích.” Bản xã hiệp hứa y dĩ hợp khắc thạch bi vĩnh truyền vu hậu vân nhĩ!
Minh Mệnh thập lục niên lục nguyệt thập lục nhật.
2.      Dịch nghĩa: Bia gửi giỗ
Bà Nguyễn Thị Sơ hiệu là Diệu Trái, người xã Phúc Sài, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai. [Bà] tự nghĩ rằng, trước đây sống đơn độc, về sau [khi trăm tuổi] không có nơi trông cậy [việc hương hỏa]. Đến ngày 25 tháng 10 năm Mậu Dần, xã ta cùng với các thầy nhà chùa sửa chữa chùa làng, Bà đã cúng công đức 10 quan thanh tiền, lại cúng một sào ruộng tốt ở xứ Đồng Mai?[1] để cúng làm hương hỏa. Phật thánh năm Ất Mùi, xã ta lại sửa chữa lại tượng trong chùa, Bà lại cúng thêm 10 quan tiền, và thu xếp [cúng thêm] một sào ruộng ở xứ Đầm Xanh?[2] và nửa sào ruộng ở địa phận Vĩnh Lộc, xứ Đồng Tháp, để gửi giỗ. [Số] ruộng đó gộp lại giao cho các thầy nhà chùa canh tác [để thu hoa lợi].
Hằng năm, giỗ [bà] vào ngày mồng 4 tháng 11, thì các thầy nhà chùa phải chuẩn bị oản quả ba chục, hai trăm tiền hồ, ba đỉnh bạc, [? ?], một mâm cơm, trên thì cúng Phật, dưới thì cúng cho vong linh của bà họ Nguyễn, hiệu là Diệu Trái. Hiển khảo là ông Nguyễn Quý, hiệu là Phúc Lộc. Hiển tỉ hiệu là Diệu Tập. [Bà] trộm lo rằng, nếu không có bằng cớ thì việc [gửi giỗ] này sẽ bị thất truyền, [nên trước] đã có lời thưa với xã ta, xin khắc vào đá vuông đặt ở trong chùa, tên là “kí kị tích” (bia gửi giỗ). [Người trong] xã ta đã cùng đồng ý khắc bia đá để mãi truyền về sau!
Ngày 16 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 16.
(Ngày 16 tháng 6 năm 1835)
Ghi chú:
-         Những chi tiết để trong ngoặc vuông [   ] là do người dịch thêm vào.
-         Những chi tiết chưa thể xác định, chúng tôi để dấu chấm hỏi (?) để đợi ngày sau hoặc là có cao nhân đính chính lại.


[1] Đầm Mai – tên địa danh. Chúng tôi phiên như vậy nhưng chưa thể kiểm chứng được có đích thực địa danh đấy có tên là Đầm Mai hay không, nên tạm phiên là Đầm Mai, đợi ngày sau đính chính lại.
[2][2][2] Đầm Xanh – tên địa danh. Chúng tôi phiên như vậy nhưng chưa thể kiểm chứng được có đích thực địa danh đấy có tên là Đầm Xanh hay không, nên tạm phiên là Đầm Xanh, đợi ngày sau đính chính lại.

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

Nhật ký giảng đường

         Một đoạn nhật kí giảng đường, lâu rồi nên không lưu giữ được nhiều, tiếc lắm ấy, hjx. :(
         Sáng ngày 21 tháng 01 năm 2013. Chúng tôi mở đầu học kì II năm thứ 3 với môn Kinh Lễ (tiết 3 – 4) tại phòng BC 402 . Sáng hôm đó, tôi đến trường từ rất sớm và vào tiệm sách Thư viện mua vở ghi. Khi trở ra, tôi gặp bác Diệu Ngọc, sau đó tôi quay vào tiệm sách cùng với bác. Khi vào tiệm sách, chúng tôi gặp Huyền Ngọc cũng đang mua sách hay gì đó trong đấy.
Mua xong, chúng tôi lên phòng. Lúc đó, mới có mấy người đến, một lúc sau thì mọi người đến đông đủ cả. Hôm đó, k56 cũng học Hán văn Lý – Trần ngay ở dưới tầng 3.
       Tôi xuống phòng chờ lấy nước cho thầy thì gặp Văn Duy và thầy Phạm công Văn Khoái, tôi đứng lại chào thầy, đúng lúc Hữu Quảng đi xuống. Tôi đương hỏi thầy về điểm Niên luận thì thầy Đinh phu tử đến, hai thầy lên Khoa. Ba đứa chúng tôi (Duy, Quảng, Sơn) vào phòng chờ Giảng viên lấy nước rồi lên phòng.
         Khi tôi đi giặt rẻ lau bảng, lúc lên gặp thầy Đinh, hai thầy trò cùng đi lên lớp, tôi đi phía sau thầy. Tôi hỏi thầy về việc học môn học kì này, thầy nói rằng “có gì đâu, cứ vui vẻ, thoải mái mà học”. Đấy đúng là tinh thần của việc học mà Thầy đã giảng ở môn Luận ngữ.
         Khi lên đến phòng, vào giờ học, thầy điểm lại lớp, ôn lại vài chuyện sau 1 học kì Thầy không giảng dạy lớp, thầy nói rằng từ nay sẽ dạy lớp đến khi lớp ra trường.
         Vào học tiết 1, đến khi giải lao Thầy nói nghỉ 30 phút, sau đó sẽ học đến 11h30 luôn. Khi đó, tôi với mấy người Luyên, Duy, Vũ, Quảng, đi uống trà đá.
         Khi chúng tôi trở vào lớp thì gặp mấy người lên văn phòng Khoa lấy bảng điểm Niên Luận. Điểm Niên luận của lớp khá cao, rất nhiều điểm 10, tôi cũng nằm trong nhóm được 10, hehe.
          Chúng tôi lên lớp học tiếp, trong giờ học cũng không có gì lạ cả, thầy giảng bài, trò nghe giảng và ghi chép. Thời gian như đọng lại, tình thầy trò cũng đậm sâu theo từng con chữ. Những thói quen đã tạo thành nếp, như một phần không thể thiếu của cuộc sống. Những bộn bề cũng lắng xuống theo lời giảng của thầy. Chúng tôi may mắn khi được thầy khai tâm cho những nét chữ Hán đầu tiên, những kỉ niệm nơi giảng đường, những lời khuyên bảo khi thầy tâm sự, những lời nghiêm nghị khi thầy giận, nhưng hơn hết vẫn là những tiếng cười giòn tan khi thầy trò cùng hiểu nhau khi nói đến một vấn đề nào đó. Chao ôi, có còn gì hơn những điều ấy được chăng?
          Lúc về, thầy đưa tài liệu cho lớp để photo.
          Kết thúc buổi học đầu tiên của kì II năm thứ 3. :)

         Tân Mai ngày 21 tháng 01 năm 2013.
         Bách Quỷ Trúc Lâm viết.