Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Kiếm Hồ Kí - Phương Đình Nguyễn Văn Siêu



Mấy ngày hôm nay, trên một số báo mạng đang bàn tán xôn xao về tờ lịch của ngân hàng HSB, tiếp đó là bài báo của VH&TT phỏng vấn anh Trần Quang Đức, nên tôi quyết định đăng bài này lên Blog cá nhân, chỉ với một ý nghĩ rằng, nếu mình biết được điều gì thì nên chia sẻ để mọi người cùng biết.
Bản thân tôi thì không dám có lộng bàn gì ở đây, nhưng tôi trộm nghĩ rằng, đã là truyền thuyết thì không nên xác định rạch ròi là đúng hay là sai, mà điều quan trọng là ý nghĩa của câu chuyện đấy đem lại là gì. Rõ ràng, trong bối cảnh xã hội cách đây vài trăm năm thì không phải chuyện gì cũng có thể làm sáng tỏ, cho nên chuyện ‘tam sao thất bản’ là một điều hết sức bình thường. Năm ngoái, tôi có được học về một tác phẩm của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, nói về Hồ Kiếm và nguồn gốc tên gọi của Hồ. Tôi rất thích câu “hồ dĩ kiếm danh giả, hựu bất chuyên tại kiếm, dĩ kì hữu kiếm chi công nhĩ” (Hồ có tên là Hồ Kiếm không phải chỉ chuyên ở kiếm, mà ấy là do công của kiếm đem lại). Cứ theo câu nói trên, thì cách tiếp nhận của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu trong bối cảnh xã hội đương thời thật là đáng quý, đáng khen.
Bài kí về Hồ Kiếm là tác phẩm của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, rút ra từ Phương Đình văn tập, đã từng được đăng trên Tạp chí Nam Phong, nay tôi dùng lại. Theo Tạp chí Nam Phong, phàm là những chỗ khó hiểu còn nghi vấn trong tác phẩm thì được dùng [ ] để đánh dấu, để mong được bậc “bác nhã quân tử” đính chính giúp. Dưới đây là phần chữ Hán, phiên âm và dịch nghĩa của bài kí.

1.     Chữ Hán: 劍湖記 (方亭阮文超 )
余幼已聞有劍湖, 而未曾到。往者移住軍屯,其左岸除以路。昔之于迴灌莽,人所不得至,今爲熟徑。予或旦而過之, 三五魚舟蒙露而出, 中有水鳥數四群自相離合若避之者; 或暮而過之, 鈴柝在樓, 足下微波互答, 不數十步漸覺寒氣侵人; 或日乘興而往焉, 買舟獨泛, 可霎辰而盡; 捨舟登湖中之山, 披蒙葺傍草廟, 四其望, 邑屋華麗隨樹隱見者,半士女繽紛出没。其上者半,俯視湖中, 則無不見之者, 又不啻宇宙大觀焉. [既而曰: 城市中有此觀常在也. 然而至者數矣, 未嘗有一字]. 明命八年秋,予友陳得英者始家於湖畔,遇邀以歸, 坐之曰: “樂哉! 洋洋乎! 子其記之。: “記則盡之矣。: “毋乃小之歟。: “觀無窮而言有盡.予非小之也。然使我而不凝於物,雖滄海在前猶以爲小; 使物得以役我, 雖壑溪猶以爲大, 而矧於湖。得英曰: “雖然, 斯遊也而不與人共之乎?” 嗟夫! 天地間, 景有同遊, 人無盡合; 林麓烟水之幽邃, 覩之者或為之沉嘻激慨而樂者愈形其樂; 樓臺風物之繁華, 得之者或爲之酣歌醉舞而憂者終不以此易其憂。以我旦暮間所得,亦且不同; 觀者各自取可也, 而何言? 因飲之酒, 酒半, 又曰: “吾欲聞所爲劍湖者, 笑答之曰: 子欲予記以存之歟? 待予記而以存, 湖失久矣。不見前内湖者, 今而累瓦其上矣。七畝湖者,今而通衢其中矣。旗臺者, 昔之蓮湖者。泉局者, 昔之水軍湖者。 亦有入月猶湖, 出月則瓦營矣。 去日猶營,來日則平湖矣。然今古不同, 廢興異跡。 [此而并引, 何乃存歟?] 。 子欲聞, 予蓋有聞焉。昔黎葉將僭於莫, 襄翼帝幸此湖, 先失其開國劍, 索之不得, 而湖始以劍名。 [方且] 黎未興之始, 我國復爲明有, 來官者, 徒利其國而外其人, 賢者屈服, 民不聊生。太祖應天順人起而驅之, 降者萬餘送歸其國, 不忍殺。至今四百餘年, 黎再亡矣。猶能永無北患,雖感其恩而三尺之威尙在。然則, 湖以劍名者, 又不在劍, 以其有劍之功耳。不然, 黎中興後, 鄭帥嘗卽西湖為行宫, 植以蓮, 今亦存, 人何獨不以蓮名是湖者!
2.     Phiên âm: Kiếm hồ kí (Phương Đình Nguyễn Văn Siêu)
Dư ấu dĩ văn hữu Kiếm hồ, nhi vị tằng đáo. Vãng giả di trú quân đồn, kì tả ngạn trừ dĩ lộ. Tích chi vu hồi quán mãng, nhân sở bất đắc chí, kim vi thục kính. Dư hoặc đán nhi quá chi, tam ngũ ngư chu mông lộ nhi xuất, trung hữu thủy điểu sổ tứ, quần tự tương li hợp nhược tị chi giả; hoặc mộ nhi quá chi, linh thác tại lâu, túc hạ vi ba hỗ đáp, bất sổ thập bộ tiệm giác hàn khí xâm nhân; hoặc nhật thừa hứng nhi quá yên, mãi chu độc phiếm, khả siếp thời nhi tận. Xá chu đăng hồ trung chi sơn, phi mông tập bàng thảo miếu, tứ kì vọng, ấp ốc hoa lệ tùy thụ ẩn hiện giả, bán sĩ nữ tân phân xuất một. Kì thượng giả, bán phủ thị hồ trung, tắc vô bất kiến chi giả, hựu bất thí vũ trụ đại quan yên. [Kí nhi viết: thành thị trung hữu thử quan thường tại dã. Nhiên nhi chí giả sổ hĩ, vị thường hữu nhất tự]. Minh Mệnh bát niên thu, dư hữu Trần Đắc Anh giả thủy gia ư hồ bạn, ngộ yêu dĩ quy, tọa chi viết: “Lạc tai! Dương dương hồ! Tử kì kí chi”. Viết: “Kí tắc tận chi hĩ”. Viết: “Vô nãi tiểu chi dư?” Viết: “Quan vô cùng nhi ngôn hữu tận. Dư phi tiểu chi dã. Nhiên sử ngã nhi bất ngưng ư vật, tuy thương hải tại tiền  do dĩ vi tiểu; sử vật đắc dĩ dịch ngã, tuy hác khê do dĩ vi đại, nhi thẩn ư hồ”. Đắc Anh viết: “Tuy nhiên, tư du dã nhi bất dữ nhân cộng chi hồ?” Ta phù! Thiên địa gian, cảnh hữu đồng du, nhân vô tận hợp; lâm lộc yên thủy u thúy, đổ chi giả hoặc vị chi trầm hy kích khái nhi lạc giả dũ hình kì lạc; lâu đài phong vật chi phồn hoa, đắc chi giả hoặc vị chi ham ca túy vũ nhi ưu giả chung bất dĩ thử dịch kì ưu. Dĩ ngã đán mộ gian sở đắc, diệc thả bất đồng; đổ giả các tự thủ khả dã, nhi hà ngôn? Nhân ẩm chi tửu, tửu bán, hựu viết: “Ngô dục văn sở vi Kiếm hồ giả”. Tiếu đáp chi viết: “Tử dục dư kí dĩ tồn chi dư? Đãi dư kí nhi dĩ tồn, Hồ thất cửu hĩ”. Bất kiến tiền nội Hồ giả, kim nhi lũy ngõa kì thượng hĩ. Thất Mẫu hồ giả, kim nhi thông cù kì trung hĩ. Kì Đài giả, tích chi liên hồ giả. Tuyền cục giả, tích chi Thủy Quân hồ giả. Diệc hữu nhập nguyệt do hồ, xuất nguyệt tắc ngõa doanh hĩ. Khứ nhật do doanh, lai nhật tắc bình hồ hĩ. Nhiên kim cổ bất đồng, phế hưng dị tích. [Thử nhi tịnh dẫn, hà nãi tồn dư?]. Tử dục văn, dư cái hữu văn yên. Tích Lê diệp tương tiếm ư Mạc, Tương Dực đế hạnh thử hồ, tiên thất kì khai quốc kiếm, sách chi bất đắc, nhi hồ thủy dĩ kiếm danh. [Phương thả] Lê vị hưng chi thủy, ngã quốc phục vi Minh hữu, lai quan giả đồ lợi kì quốc nhi ngoại kì nhân, hiền giả khuất phục, dân bất liêu sinh. Thái tổ ứng thiên thuận nhân khởi nhi khu chi, hàng giả vạn dư tống quy kì quốc, bất nhẫn sát. Chí kim tứ bách dư niên, Lê tái vong hĩ. Do năng vĩnh vô Bắc hoạn, tuy cảm kì ân nhi tam xích chi uy thượng tại. Nhiên tắc, hồ dĩ kiếm danh giả, hựu bất chuyên tại kiếm, dĩ kì hữu kiếm chi công nhĩ. Bất nhiên, Lê Trung Hưng hậu. Trịnh soái  thường tức Tây hồ vi hành cung, thực dĩ liên, kim do tồn, nhân hà độc bất dĩ liên danh thị hồ giả!
3.     Tạm dịch: Bài ký về Hồ Kiếm – Phương Đình Nguyễn Văn Siêu
Ta thuở bé đã từng nghe có Hồ Kiếm, nhưng chưa từng được đến. Gần đây mới dời đồn đóng quân đi, mé trái của Hồ có chừa ra một lối đi. Trước đây rậm rạp quanh co, là chỗ mà người ta không được phép lui tới, nay đã thành đường nhẵn. Tôi có khi qua đấy vào khi sáng sớm, [thấy] dăm ba chiếc thuyền chài đội sương ló ra, trên mặt hồ vài ba con chim nước xúm lại rồi tản ra như tránh người vậy; hoặc có khi tôi qua đấy vào lúc chiều hôm, trên lầu vang tiếng mõ, dưới chân sóng nhẹ đuổi nhau, đi vài mươi bước thì dần cảm thấy khí lạnh thấm vào người. Có hôm tôi nhân hứng qua đấy, thuê thuyền bơi một mình, chỉ  thoáng lát là bơi hết hồ, rồi rời thuyền lên núi ở giữa hồ, vạch cỏ gianh bên cạnh miếu xưa, nhìn ra bốn phía, thấy nhà cửa hoa lệ, thấp thoáng ẩn hiện, phải đến phân nửa là trai gái tấp nập ra vào. Bóng rủ xuống hồ, cúi nhìn thì không gì là không thấy[1], thực chẳng khác gì một đại kì quan trong vũ trụ. [Thế rồi tôi nói: Trong chốn thị thành có một đại kì quan còn mãi đó, người đến thăm chỗ này thực nhiều lắm, nhưng chưa có ai ghi lại lấy một chữ]. Mùa thu, năm Minh Mệnh thứ 8 [tức năm 1827], bạn tôi là ông Trần Đắc Anh cất nhà bên bờ Hồ, gặp tôi mới mời về nhà, mời tôi ngồi và nói rằng: Vui thay! Cảnh hồ. Ngài hãy làm một bài văn về nó đi. Tôi bảo rằng: Nếu chép ra thì hết mất! Thế sao không rút ngắn nó lại? Rằng: Kì quan thì vô cùng, mà ngôn từ thì có hạn. Tôi không thể rút gọn lại được đâu! Thế nhưng, nếu ta không hòa mình vào cảnh vật, thì dẫu có đứng trước biển xanh thì cũng chỉ thấy bé nhỏ. Nếu để vật hút hồn ta, thì ngòi rãnh cũng trở nên rộng lớn. Huống chi là đối với Hồ này. Ông Đắc Anh nói: “Chẳng nhẽ Ngài lại không muốn chia sẻ cuộc du chơi [Hồ] lần này với mọi người hay sao? Than ôi! Trong khoảng trời đất, cảnh vốn cùng chơi, người đâu hợp hết. Nơi sông núi xa xôi, có người thấy mà tỏ lòng cảm khái, vui vẻ, nên cái vui lại càng vui. Nơi lâu đài phong vật phồn hoa, người đến đó, có người hoặc là say mê ca múa, mà rốt cuộc thì buồn vẫn không đổi lòng buồn. Ngay như với tôi đây, những cảm nhận buổi sớm thì chiều đã khác. Người xem tự cảm nhận những những điều mà tự mình cho là đẹp, thì sao còn nói nên lời mà làm gì? Rồi [chúng tôi] mời nhau uống rượu, khi đã ngà ngà, ông Đắc Anh lại nói: Tôi muốn được biết Hồ vì sao lại được gọi là Hồ Kiếm! Tôi cười mà đáp rằng: Ngài muốn tôi nghi chép lại để Hồ được giữ lại mãi hay sao? Chờ đến lúc tôi ghi lại Hồ mới còn thì Hồ đã mất từ lâu rồi. Chẳng thấy [chỗ] mà trước đây là Hồ, giờ đã ngói lợp thành nhà. Hồ Bảy Mẫu, giờ đã thông đường lớn. Cột cờ, trước đây là hồ sen. Cục đúc tiền, trước đây là hồ Thủy Quân. Cũng có khi trăng lặn [tức cuối tháng] là hồ, trăng ló [đầu tháng] đã thành nhà cửa. Hôm qua hãy còn là doanh trại, hôm nay đã thành hồ phẳng rồi. Thế nhưng kim cổ chẳng giống nhau, phế hưng xưa nay cũng khác. [Mới dẫn ra mà có còn đâu?]. Ngài muốn nghe, tôi cũng có điều kể cho Ngài được biết về Hồ. Xưa, khi nhà Lê sắp bị nhà Mạc tiếm, vua Tương Dực (1509-1516) đến chơi Hồ này [Hồ Kiếm], trước đã làm mất thanh kiếm khai quốc ở đây, tìm mãi mà chẳng được, bởi thế nên hồ có tên là Hồ Kiếm. Hơn nữa, lúc đầu khi nhà Lê chưa dấy, nước ta thuộc vào nhà Minh, bọn quan Tàu chỉ lo làm lợi cho nước của chúng mà chẳng đếm xỉa gì đến dân ta, người hiền chịu khuất phục, dân không sống nổi. Thái tổ [Lê Lợi] đã nổi dậy đánh đuổi chúng, quân giặc đầu hàng có đến hàng vạn mà đều tha cho về nước, chứ không nỡ giết, đến nay đã hơn 400 năm, nhà Lê lại mất lần nữa. Thế nhưng, nhờ đấy mà nước ta không còn phải lo mối giặc phương Bắc. Dẫu cảm kích ơn xưa, mà uy của thanh gươm ba tấc hãy còn. Vậy thì, Hồ có tên là Hồ Kiếm không phải chỉ chuyên ở kiếm, mà ấy là do công của kiếm đem lại. Chẳng thế, sau Lê Trung Hưng, chúa Trịnh thường đến Hồ Tây làm nơi hành cung, trồng hoa sen ở đấy, đến nay hãy còn, [thế thì] sao người ta không dùng sen để đặt tên cho hồ!

Hoằng Thành - Hoằng Hóa - Thanh Hóa, giờ Tý ngày 28 tết năm Giáp Ngọ (2014).
Lê Hoắc Phong

[1] Bóng in xuống mặt hồ.

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2014

VĂN TẾ THẬP LOẠI GIÁO SƯ.

      Tiểu dẫn: Mỗi năm một lượt “đến hẹn lại lên”, Hội đồng chức danh học hàm nhà nước lại cho triển khai đợt xét phong học hàm Giáo sư và Phó giáo sư. Thế là, các ông nghè bà nghè cả nước lại một phen nháo nhào “đăng trường ứng thí”. Cũng là một thứ “Lều chõng” tái thế mang khuôn dạng có vẻ mỹ miều. Chẳng biết các Hội đồng của các ngành khác thế nào không rõ, chứ Hội đồng bên cái ngành văn vẻ năm nào cũng eo sèo lắm chuyện chẳng mấy sạch sẽ gì.
      Hội đồng chuyên ngành đã vừa kết thúc. Như mọi cuộc thi, có kẻ khóc người cười. Ấy là nói phía những “ứng thí viên”. Chứ còn những “giám khảo viên” cũng không dám chắc là không có chuyện…Kẻ hậu sinh này  rập đầu cúi xin Đại thi hào Nguyễn Du được tập “ Văn chiêu hồn”  của Người mà “khốc” rằng:

                                          
Tiết quý Thu gió mưa vuồn vuột
Dân quê miềng lạnh buốt xương da
   Lập đàn đèn nến hương hoa
Lạy ông tiến sĩ, lạy bà giáo sư.

Bể học vấn hư hư thực thực
Lối quan trường bắc bực gai chông
   Vênh vênh một lũ Hội đồng
Phiếu bầu thì có, đầu không có gì.

Không có gì mà gì cũng có
Sự học hàm ngấp ngó đua tranh
   Đua tranh thì có giá thành
Mua danh ba vạn, bán danh ba hào.

Nào những kẻ mũ cao áo rộng
Chốn Tam đình ngong ngóng vào ra
   Thanh binh chính thị nghiệp nhà
Ô hô mồm giải mép loa cũng tài.

Nào những kẻ miệt mài đèn sách
Đạo văn người chắp nhặt nên câu
   Sách người làm mọt làm sâu
Ô hô nhai lại kiếp trâu kiếp bò.

Nào những kẻ tò vò nuôi nhện
Bụng nhện tròn nó quện luôn ông
   Ô hô mông quạnh đồng không
Có hương có khói nhưng không bàn thờ.

Nào những kẻ lập lờ đục nước
Hội Tâm linh mưu chước sắp bày
   Dị nhân đuổi gió hô mây
Quái nhân múa mép, múa tay, múa tiền.

Nào những kẻ điên điên dại dại
Nay quốc ca mai lại quốc hoa
   Ô hô vỏ lựu mào gà
Nước nôi man mác biết là còn không.

Nào những kẻ lưu vong thất thổ
Cõi Tây phương mặt rỗ kỳ khu
   Học đòi lí lẽ ba xu
Chõ về đàn gảy tai tru mà rầu.

Nào những kẻ Đông Âu tu luyện
Trợ cấp còm tằn tiện từng khâu
   Gái xinh chẳng dám nhìn lâu
Áo phông son Thái khấu đầu bán buôn.

Nào những kẻ cúi luồn thân phận
Tay bút gươm lòng lận bút lông
   Ô hô trời đất thấu không
Đô Long hạ bệ, đốc Đông thượng tòa.

Nào những kẻ ghen gà tiếng gáy
Hám vinh danh tháu xoáy công trình
   Chưa thôi tranh luận rập rình
Đã lôi nhau đến pháp đình… tội chưa.

Cũng có kẻ thân lừa ưa nặng
Cũng có cha lẵng nhẵng oán ân
   Cuốc Liên điện thoại Ma Lân
Đánh rơi thằng nọ, xí phần đứa kia…

Phận bèo bọt thia lia mặt nước
Giang sơn này độc dược tràn lan
   Bán buôn sông biển non ngàn
Hồn hề hồn hỡi hồn tan hay còn…

(Khuyết danh)
Cuối năm Quý Tỵ cóp nhặt được.

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2014

Giá nhất bái 这一拜




这一拜,春风得意遇知音,桃花也含笑映祭台
这一拜,保国安邦志慷慨,建国立业展雄才 展雄才

这一拜,忠肝义胆,患难相随誓不分开

这一拜,生死不改,天地日月壮我情怀

长矛在手,刀剑生辉

看我弟兄,迎着烽烟大步



Một lạy này, gió xuân ấm áp gặp tri âm, hoa đào hé nở sáng tế đàn.

Một lạy này, cứu nước an dân lòng khảng khái, dựng xây nghiệp lớn tỏ hùng tài.

Một lạy này, trung nghĩa một lòng, cùng chung hoạn nạn, thề không xa rời.

Một lạy này, sống chết chẳng đổi, trăng sao trời đất chứng lòng.

Giáo mác trên tay, đao kiếm sáng ngời.
Hãy xem anh em ta đây, sợ gì lửa khói xông thẳng tới!

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Sắc phong Quảng Trạch Đại Vương 4












 1. Phiên âm:
      Sắc: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Hậu Đức Chí Nhân Hỗ Đại Vương.
      Thực bất yểm phù, đức kì thịnh hỹ. Đa hãn tai ngự hoạn chi lực, ức tải uy linh hữu an dân hộ quốc chi công. Bách thế miếu tự, quốc tộ thâm kỳ hộ hữu. Lễ văn tái cử bao phong.
      Vị: Dục trí thiên địa ứng hòa, tỉnh cung trách kỉ. Kính ý cầu đảo. Ưng gia phong, khả gia phong: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Hậu Đức Chí Nhân Triệu Mưu Tá Tich Hỗ Đại Vương.
      Cố sắc!
      Đức Long ngũ niên ngũ nguyệt nhị thập thất nhật.

2. Dịch nghĩa:
      Sắc cho: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Hậu Đức Chí Nhân Hỗ Đại Vương.
      Thực chẳng thể che giấu, đức quả thịnh thay. Nhiều công ngăn tai trừ họa, uy danh muôn thuở có công giúp nước an dân. Thờ cúng trăm đời, vận nước thêm phần gìn giữ. Theo lễ tốt đẹp nên tiến hành nghi lễ tặng khen.
      Vì là: Muốn đưa trời đất đến cảnh thái hòa, tự xét nét nơi thân mình. Kính cẩn cầu đảo. Đáng được gia phong, vậy nên gia phong cho là: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Hậu Đức Chí Nhân Triệu Mưu Tá Tich Hỗ Đại Vương.
      Vậy nên sắc cho!
      Ngày 27 tháng 5 năm Đức Long thứ 5.

Sắc phong Quảng Trạch Đại Vương 3














1. Phiên âm:
      Sắc: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Đại Vương.
      Nguy nguy thịnh đức, mặc mặc thần công. Chí nhi tư, cập nhi quy. Thực vi nhất vật âm dĩ phù, mặc dĩ tướng tộ diễn ức niên. Chính quyền phương hữu sở quy tự, điển hạp minh tái cử!
     Vị: Triều thần thiêm luận, kiến lập thế tử dĩ trọng quốc bản, sự quan trọng đại. Ưng gia phong, khả gia phong: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Hậu Đức Chí Nhân Đại Vương.
      Cố sắc!
      Đức Long tứ niên tam nguyệt nhị thập cửu nhật.
2. Dịch nghĩa:
      Sắc cho: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Đại Vương.
      Thịnh đức vòi vọi, thần công lặng lẽ. Đến mà phát triển, kịp mà thuận theo. Thực là ngầm giúp cho muôn vật một phương, lặng lẽ mà phù cho vận nước đến muôn đời. Chinh quyền địa phương đã thờ cúng, điển lễ há lại chẳng tặng khen!
     Vì là: Triều thần thiêm bàn, kiến lập thế tử để trọng quốc bản, việc liên quan trọng đại. Đáng được gia phong, vậy nên gia phong cho là: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Hậu Đức Chí Nhân Đại Vương.
     Vậy nên sắc cho!
     Ngày 29 tháng 3 năm Đức Long thứ tư.

Sắc phong Quảng Trạch Đại Vương 2

 










1. phiên âm:
      Sắc: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Đại Vương.
      Càn khôn dục tú, sơn nhạc trừ tinh. Bảo quốc hộ dân, bảo nhất phương chi cảnh thổ; trừ tai ngự hoạn, bẩm vạn cổ chi uy linh. Vũ thí đa đắc vũ chi công. Phong hậu cử gia phong chi lễ.
     Vị: Hiển hữu linh ứng, dĩ đảo đắc vũ. Ưng gia phong, khả gia phong: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Đại Vương.
     Cố sắc!
     Đức Long nguyên niên thất nguyệt nhị thập lục nhật.

2. Dịch nghĩa:
     Sắc cho: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Đại Vương.
     Sơn nhạc hun đúc vẻ tinh anh, đất trời dựng xây màu tươi đẹp. Giữ nước gìn dân, trông nom một vùng lãnh thổ; ngăn tai trừ họa, bẩm uy linh từ muôn thuở. Ơn thần nhiều lần ban mưa. Tiến hành nghi lễ gia phong hậu hĩnh.
     Vì là: Linh ững rõ bày, từng cầu được mưa. Đáng được gia phong, vậy nên gia phong cho là: Bảo Quốc Hựu Dân Địch Khang Dũng Vũ Trang Nghị Hùng Liệt Hiển Ứng Cương Chính Hậu Phúc Linh Cảm Tín Sùng Minh Dực Định Y Cung Đôn Hậu Tĩnh Phù Huệ Khuông Hóa Chiêu Hòa Tuyên Mỹ Quang Hanh Long Triết Dương Hưu Phù Vận Hoằng Công Tế Chúng Phụ Quốc Tá Trị Tĩnh Nan Phong Công Thịnh Đức Tuy Hưu Đốc Khánh Ninh Đông Nhân Đức Huệ Trạch Phù Thế Quảng Trạch Phù Tộ Linh Thông Đại Vương.
     Vậy nên sắc cho!
     Ngày 26 tháng 7 năm Đức Long thứ nhất.